Skip to content
Top banner

TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI DƯỚI CÁI NHÌN THẦN HỌC: THẦN HỌC TRUYỀN THÔNG

COMMUNICATION-THEOLOGY
2024-03-11 02:28 UTC+7 1937
fr-vu-communication-theology-0001-1710130913.jpg

TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI DƯỚI GÓC NHÌN THẦN HỌC: THẦN HỌC TRUYỀN THÔNG

Nguyên tác: Ta, Anh Vu, and Franz-Josef Eilers, SVD. Social Communication in Theological Perspective: Communication Theology. Communicatio Socialis Prints, no. 1.

Người dịch: Vincent de Paul Nguyễn Đức Nam, O.Cist. (dvxitochauthuy.com)

Hiệu đính: Lm. Bernard Trần Nghiêm, O.Cist


TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI DƯỚI CÁI NHÌN THẦN HỌC

(Franz-Josef Eilers, svd)

  • Chiều kích mặc khải

  • Chiều kích nhập thể

  • Chiều kích Giáo Hội/ công bố Tin Mừng [Kerygma]


THẦN HỌC TRUYỀN THÔNG 👉 (đọc bài viết tại đây)

(Ta Anh Vu)

1. Sự phát triển một khái niệm thần học

2. Nguồn gốc của ý tưởng về thần học truyền thông

3. Những chiều kích của việc Thiên Chúa thông ban chính mình trong Mặc Khải 👉 (đọc bài viết tại đây)

4. Những chiều kích của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong mầu nhiệm Nhập Thể 👉 (đọc bài viết tại đây)

5. Vai trò của Chúa Thánh Thần

6. Giáo Hội như là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi: Một thực tại mang tính truyền thông 👉 (đọc bài viết tại đây)

7. Suy tư kết luận


TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI DƯỚI CÁI NHÌN THẦN HỌC

Franz-Josef Eilers, svd

Thuật ngữ “truyền thông xã hội” đã được Công đồng Vatican II đưa ra trong sắc lệnh về các phương tiện truyền thông xã hội Inter Mirifica vào năm 1964. Trong một chú thích cuối trang cho chính đoạn văn đầu tiên của tài liệu như đã được trao cho các Nghị phụ Công đồng, một thuật ngữ mới “truyền thông xã hội” được giới thiệu là cần thiết vì mối quan tâm của Giáo Hội đi xa hơn các thuật ngữ thường dùng như “các phương tiện truyền thông khuếch đại,” “các phương tiện truyền thông đại chúng,” “publizistik” và những hạn từ tương tự (x. Eliers, 2014, 142 tt.). Nói xa hơn, trong tương lai thuật ngữ mới này cũng nên được dùng cho tất cả các tài liệu liên quan đến lĩnh vực đang được nghiên cứu này. Tuy nhiên, một giải thích xa hơn về hạn từ và khái niệm mới này đáng tiếc là đã không bao giờ được đưa ra kể từ khi đó. Vì vậy, ngay cả một người như cha Enrico Baragli, SJ., một trong những người đã đề nghị tên gọi mới này trong những thảo luận bước đầu, đã trở lại với đề tài “các phương tiện truyền thông đại chúng” tại một cuộc lượng giá về tài liệu này sau mười năm xuất bản, chứng minh điều đó với bình luận rằng sẽ là quá khó để hiểu được thuật ngữ mới này. Dường như đã không bao giờ có một nỗ lực thật sự nào để giải thích và phát triển thuật ngữ này, điều thực sự đã được đề cập sớm bởi các nhà xã hội học (Braga 1965) và tâm lý học (Kiefer 2007). Thực tế là một nghiên cứu xa hơn về thuật ngữ mới này dẫn tới một hiểu biết sâu xa hơn về truyền thông như một tiến trình trong xã hội liên quan một cách mạnh mẽ tới những mạng lưới xã hội đã thật sự tồn tại do con người (Standage 2013) nhưng ngày nay đã phát triển trong vai trò đặc biệt nhờ những sự phát triển công nghệ hiện đại về không gian ảo và Internet. Vì thế, truyền thông xã hội cần phải được hiểu như là truyền thông của và trong xã hội con người. Điều này bao gồm mọi cách thức và phương pháp truyền thông trong xã hội.

Nhìn vào thực tế này, người ta có thể thấy trong viễn tượng lịch sử ba lĩnh vực chính của sự truyền thông chỉ phần nào liên hệ đến thời gian và những phát triển công nghệ này.

Đầu tiên, trên thực tế, sự truyền thông giữa các cá nhân cũng như văn hóa được coi là điều tồn tại từ lúc khởi đầu nhân loại. Ngay từ ban đầu, chính những con người đầu tiên chắc hẳn đã truyền thông giữa người này với người khác, điều này đã được chứng thực nhờ những bức vẽ trên hang động và các đồ vật riêng lẻ trên 300,000 năm tuổi. Chiều kích văn hóa được phản ánh qua những diễn tả bằng ngôn ngữ nhằm thấu hiểu và truyền thông với nhau, ngôn ngữ ký hiệu mà Walter Ong đã nghiên cứu và trình bày theo một cách thức đặc biệt. Nhờ ngôn ngữ và các ký hiệu, sự tương tác con người đã trở nên khả dĩ và đã được/cũng được diễn tả thông qua các vở kịch và nghệ thuật sân khấu, khiêu vũ và việc sáng tác âm nhạc. Ở đây, những người tham gia đã là “những nhà sản xuất” cũng như là “những khách hàng.” Thực sự, điều này không chỉ đã có trong lịch sử mà ngày nay vẫn còn đang sống động trong mọi xã hội và nền văn hóa nhân loại.

Thứ đến, việc sử dụng một loại hình “công nghệ” nào đó đã bắt đầu với việc đặt lời và những từ ngữ vào trong bản văn. Đây là loại hình “thương mại hóa” nơi phòng làm việc của các đan viện, ở đó việc sao chép lại những cuốn sách đã là một phần của các hoạt động. Nó đã phát triển xa hơn nhờ sự phát minh ra máy in của Johannes Gutenberg vào khoảng năm 1450 đưa đến kết quả là những cuốn sách được in ra, điều mà cách nào đó đã thống trị truyền thông của con người và Giáo Hội trong mấy trăm năm. Với sự phát minh ra phim ảnh vào năm 1895, hoạt động của con người đã trở nên có thể nhìn thấy được và trải rộng trên toàn thế giới. Sau đó, việc truyền phát ngôn ngữ và hình ảnh (tivi) đã tiếp nối và trở nên điều gọi là “phương tiện truyền thông đại chúng” làm say mê những nhóm người đông đảo tương tự như sự lưu thông thư tín và báo chí trên diện rộng. Tuy nhiên, giai đoạn truyền thông này, tới một mức độ nhất định, đã cách nào đó làm cho khán giả/độc giả trở nên bị động, nơi mà sự trao đổi cá vị đã trở nên rất khó hay gần như là không thể, chứ chưa nói gì đến “đối thoại” thực sự giữa những người tham gia. Ở đây, các phương tiện truyền thông đã trở thành cơ sở kinh doanh và các máy thu nhận cách nào đó những đối tượng thụ động thường quan trọng đối với lợi ích tài chính của các chủ sở hữu phương tiện truyền thông hơn là một dịch vụ thực sự.

Sau cùng, toàn bộ điều này hiện nay đang đổi thay lần nữa nhờ những khả năng công nghệ trong lĩnh vực Internet và không gian ảo, đặc biệt là trong sự phát triển từ công nghệ Web 1.0-2.0 với tất cả tiềm năng của nó cho sự trao đổi cá nhân tích cực vô giới hạn giữa những người tham gia ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Họ trở thành những đối tác của nhau trong đối thoại và hành động, rồi phản ứng lại ngay lập tức, vì thế, vừa trở thành những nhà sản xuất vừa là khách hàng một lần nữa, điều này được diễn tả bằng một từ thay thế mới mẻ “Prosumers”. Ở đây, một lần nữa “truyền thông xã hội” bao trùm toàn thể xã hội con người.

Đối với con người, truyền thông là điều cốt yếu, một phần căn bản với bất cứ người nào. Tuy nhiên, trong cách hiểu Kitô giáo, thực tại này về mặt thần học được đặt nền tảng và phản chiếu trong một Thiên Chúa truyền thông ngôi vị: vì Chúa Cha và Chúa Con truyền thông trong Chúa Thánh Thần, con người cũng có khả năng truyền thông nhờ việc họ được tạo dựng theo “hình ảnh và giống như” Người. Thực tại thần học này được phản chiếu và tỏ hiện trong mặc khải của Thiên Chúa và việc Người truyền thông với dân được chọn Israel (Cựu Ước) và trong sự nhập thể của chính Thiên Chúa nơi Con của Người, Đức Giêsu Kitô, điều đã được phản ánh trong Tân Ước. Do đó, sự truyền thông này không chỉ là việc sử dụng bất cứ một loại phương tiện công nghệ nào mà nó còn ở ngay tâm điểm của Kitô giáo và cách hiểu của Kitô giáo về một Thiên Chúa truyền thông. Một viễn tượng thần học về điều này phải là cơ sở của bất cứ một đức tin sống động nào: nó được suy tư một cách đặc biệt trong linh đạo tương ứng, cũng như trong việc nghiên cứu và giảng dạy về một Thiên Chúa thông ban, chia sẻ chính mình cho con người.


fr-vu-communication-theology-mh-01-1710131604.jpg

Đã có những nỗ lực để cách nào đó “rửa tội” sự tồn tại và những hoạt động của truyền thông hiện đại trong một nền “thần học về truyền thông”; tuy vậy, những nỗ lực ấy không đáp ứng một cách thích đáng cho sự thật về Thiên Chúa như là một Thiên Chúa truyền thông trong chính Người và qua các thụ tạo của Người. Lối tiếp cận này đã được minh họa như sau:

Thiên Chúa như một Thiên Chúa Ba Ngôi truyền thông là căn bản cho toàn bộ truyền thông xã hội. Vì thế, ngày càng nhiều nhà thần học xem truyền thông không chỉ như một hoạt động cần đến một chiều kích thần học. Họ nhìn truyền thông không như một trong nhiều lĩnh vực thần học. Họ cũng không tìm kiếm một thần học “rửa tội” truyền thông xã hội, nhưng đúng hơn nhìn nó như là một nguyên tắc căn bản và chiều kích cốt yếu của bất cứ nền thần học nào.

Một lối tiếp cận khác nói về thần học mang tính truyền thông nhắm đến người đón nhận nhiều hơn và có thể được minh họa như sau:


fr-vu-communication-theology-mh-02-1710131737.jpg

Tuy nhiên, một thần học truyền thông thực sự thì thấy tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị ở trung tâm, và vì thế có thể hiểu được truyền thông và nguyên lý thần học (Eliers, 2012). Ở đây, truyền thông trở thành một nguyên lý thần học ở tại cơ sở của toàn bộ thần học: toàn thể thần học được nhìn dưới viễn tượng truyền thông – Thiên Chúa thông ban cho con người và mặc khải chính mình Người.

Carlo M. Martini đã phát triển một lối tiếp cận như thế trong kế hoạch mục vụ năm 1990 của ngài dành cho Tổng giáo phận Milan. Ngài xem bất cứ sự truyền thông nào của con người cũng đều như bắt nguồn nơi mầu nhiệm của Ba Ngôi Cực Thánh, từ đó tạo thành và hiện hữu phát sinh: “từ sự hiệp thông tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi và sự đối thoại không gián đoạn bắt nguồn từ tình yêu này” (1990, 35). Trong việc tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như mình (St 1, 26; Kn 2, 23), Thiên Chúa cũng đã ban cho họ khả năng và nhu cầu thiết lập những tương quan mang tính truyền thông với nhau. Sự đối thoại mà Thiên Chúa đã thiết lập một cách tự do với thụ tạo yêu quý của Người là nền tảng cho sự trao đổi cũng như đối thoại giữa con người, và “mọi trang Kinh Thánh đều đào sâu biến cố, sự sụp đổ và tái thiết cuộc đối thoại này.” Những ân huệ của Thiên Chúa và những diễn tả đặc biệt của sự đối thoại này là giao ước trên núi Sinai và trong ngày Lễ Hiện Xuống. Theo Martini, Tin Mừng của Lễ Hiện Xuống là “Tin Mừng của sự truyền thông” bởi vì Thiên Chúa là sự hiệp thông và truyền thông: Người thông truyền chính mình cho chúng ta, và vì thế, giúp chúng ta có thể truyền thông với người khác và còn xóa bỏ mọi thứ làm cản trở sự truyền thông của chúng ta” (36). Giống như khúc nhạc chủ đề trong một bản giao hưởng được lặp lại bằng nhiều cách, chủ đề và sự thật này về Thiên Chúa truyền thông được diễn tả bằng nhiều chuyển động, hình ảnh và biểu tượng trong Kinh Thánh, chẳng hạn như, trong ngày Lễ Hiện Xuống – khắc phục sự hỗn loạn của Babel. Chúa Thánh Thần của Lễ Hiện Xuống, bằng khả năng truyền thông phi thường của Người, tái mở ra những kênh truyền thông đã bị tắc nghẽn từ thời Babel, tái thiết thông tin dễ dàng và xác thực giữa mọi người nhân danh Đức Giêsu Kitô, và vì thế, Giáo Hội xuất hiện như “dấu chỉ và khí cụ của sự truyền thông với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất giữa con người.”

Khái niệm của Karl Rahner về việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình như là một viễn tượng thần học được phản ánh trong tài liệu của Công đồng Vatican II về Mặc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, trong đó các Nghị phụ Công đồng đã tuyên bố: “Bằng cách mạc khải, Thiên Chúa đã muốn biểu lộ và thông ban chính mình Người cùng những ý định muôn đời của Người liên quan đến việc cứu độ nhân loại …” (số 6, x. số 4). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã tiếp tục dòng suy tư này trong Thông điệp về Chúa Thánh Thần Dominum et Vivificantem (1988) của ngài, trong đó thực ra ngài phát triển những nền tảng của một nền thần học về việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình. Hơn 10 lần ngài sử dụng và minh họa thuật ngữ này. Theo ngài, sự tự-thông ban nội tại của Một Thiên Chúa Ba Ngôi cũng trở nên một sự tự thông ban chính mình cho nhân loại: Thiên Chúa, Đấng là Tinh Thần vô biên, đã trở nên gần gũi với thế giới hữu hình. Một Thiên Chúa Ba Ngôi thông ban chính mình cho con người trong Thánh Thần từ lúc khởi đầu qua ‘hình ảnh và họa ảnh’ Người. Dưới hoạt động của cùng một Thánh Thần, con người, và qua con người, thế giới tạo thành, đã được Đức Kitô cứu chuộc, dần tiến gần tới vận mệnh tối hậu của chúng trong Thiên Chúa” (số 64).

Thiên Chúa thông ban chính mình trong trật tự sáng tạo và ân sủng, và “mầu nhiệm Nhập Thể đạt đến chóp đỉnh của việc trao ban này, của sự tự thông ban thần linh này … ‘thời viên mãn’ được làm cho xứng hợp bởi sự viên mãn đặc thù của việc Thiên Chúa Ba Ngôi tự thông ban chính mình trong Chúa Thánh Thần. ‘Bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần,’ mầu nhiệm ‘ngôi hiệp’ được diễn ra – tức là, sự hiệp nhất của bản tính Thiên Chúa và bản tính con người, của Thần tính và nhân tính trong Ngôi Vị duy nhất của Ngôi Lời – Chúa Con. Ngay từ giây phút Truyền Tin, khi Đức Maria thốt lên lời xin vâng (fiat) của mình: ‘Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói’ (Lc 1, 38), Người cưu mang trinh khiết một con người, Con Người, Đấng là Con Thiên Chúa. Bằng cách ‘hóa nên người’ này của Ngôi Lời – Chúa Con, việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình đạt tới viên mãn cách rõ ràng trong lịch sử sáng tạo và cứu chuộc. Sự viên mãn này đạt được một sự phong phú và biểu lộ đặc biệt trong bản văn Tin Mừng theo thánh Gioan: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm’ (Ga 1, 14) …” (số 50).

Sự tự thông ban chính mình mang tính cách nhập thể này trong Đức Giêsu Kitô sau cùng hướng mầu nhiệm Vượt Qua tới một chiều kích mới của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình. Các biến cố Vượt Qua “là thời gian khởi đầu mới của việc Một Thiên Chúa Ba Ngôi tự thông ban chính mình cho nhân loại trong Chúa Thánh Thần ngang qua công trình của Đức Kitô, Đấng Cứu Độ. Sự khởi đầu mới này là ơn cứu độ thế gian: ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”’ (Ga 3, 16) (số 23; x. số 13, 14)

Với sự ngự đến của Chúa Thánh Thần, việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình, “được hoàn thành trong Đức Kitô và được chứng thực bởi việc rao giảng của các Tông Đồ, tiếp tục được biểu lộ trong Hội Thánh nhờ sứ vụ của Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chân Lý …” (số 7). Hội Thánh đã “công bố từ những thế kỷ đầu tiên đức tin của mình vào Chúa Thánh Thần như Đấng ban sự sống, Đấng mà trong Người Thiên Chúa khôn dò khôn thấu thông ban chính mình cho con người, tạo nên trong họ nguồn mạch sự sống vĩnh cửu” (số 1). Như thế, Chúa Thánh Thần được xem như sự thể hiện nối tiếp của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong mọi dân nước và mọi thời đại. Người không chỉ là tác nhân của sứ vụ và công cuộc loan báo Tin Mừng như được nói đến trong Thông điệp Redempptoris Missio (1990) của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và Tông huấn Evangelii Nuntiandi (1975) của Đức Giáo Hoàng Phaolo VI, mà một cách tổng quát cần phải được xem như là tác nhân và sự viên mãn của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho Giáo Hội và cho nhân loại. Chính Chúa Thánh Thần là “thể hiện đích thân của sự tự trao ban chính mình này, của tình yêu hiện hữu này” (số 10). Nền tảng Ba Ngôi cho bất cứ sự truyền thông nào cũng đều nằm ở đây, vốn là sự ‘trao ban chính mình trong tình yêu’ như được bày tỏ trong Hướng dẫn mục vụ Communio et Progressio (số 11). Việc chúng ta ‘trao ban chính mình trong tình yêu’qua sự truyền thông nhân loại được đặt nền tảng trên việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình, giống như sự trao ban bản thân mình của chính Người. Chúa Thánh Thần là sự thể hiện tiếp nối và là tác nhân của việc này cho mọi dân tộc và mọi thời đại. Bằng cách này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II nhìn Chúa Thánh Thần như là “nguyên lý trực tiếp và, theo một nghĩa nào đó, là chủ thể của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong trật tự ân sủng” (số 50).

Benard Lonergan, trong “Phương pháp thần học” của ông, trước đây đã xem sự truyền thông như là một chiều kích cốt yếu đối với toàn thể thần học. Nhưng Avery Dulles, trong cuốn sách “Con Tàu Thần học: từ Biểu tượng đến Hệ thống” (1992) đã áp dụng sâu xa hơn khái niệm về việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình của Rahner cho toàn bộ thần học. Ông kết luận “rằng thần học về mọi mặt đều đề cập đến các thực tại truyền thông” (22). Ông mở rộng điều này xa hơn nữa liên quan tới thần học căn bản, các lĩnh vực thần học hệ thống như Kitô học, Tạo dựng, Giáo hội học, Cánh chung học, Thần học Bí tích và Thần học Thực hành bao gồm Truyền giáo học và Thần học Mục vụ. Kết luận dưới cái nhìn về Ba Ngôi, ông gọi Kitô giáo “một cách trổi vượt là một tôn giáo về truyền thông, vì trong yếu tính thâm sâu của Người, Thiên Chúa là một mầu nhiệm tự-truyền thông. Toàn bộ công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa là một sự nối dài của những tiến trình nội tại bên trong Ba Ngôi…”

Như thế, toàn bộ lịch sử cứu độ có thể được xem như là một lịch sử tự-truyền thông của Thiên Chúa. Từ sự truyền thông bên trong Thiên Chúa Ba Ngôi vươn ra tới thụ tạo của Người. Người sáng tạo con người theo “hình ảnh và và giống như Người,” điều ấy có nghĩa là con người có khả năng truyền thông và sống trong một cộng đồng mang tính truyền thông. Như vậy, Người nói và mặc khải chính mình cho những con người này khởi đầu với Adam và cách đặc biệt trong lịch sử của Người với Israel. Sự nhập thể của Đức Giêsu Kitô là cao điểm và là sự viên mãn của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong Con của Người, Đấng đã trở nên một người trong chúng ta và thông ban tình yêu của Chúa Cha cho toàn thể nhân loại. Mặc Khải và Nhập Thể dẫn tới Giáo Hội như là sự tiếp nối của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho đến tận cùng thời gian. Giáo Hội này khởi đầu với việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trong ngày Lễ Hiện Xuống và tiếp tục được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần như là “tác nhân của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình.” Sự nối dài này của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình qua Giáo Hội được biểu lộ cách chính yếu trong đời sống và các chức năng của Giáo Hội như là Kerygma (sự công bố Tin Mừng), với tư cách là một cộng đoàn (koinonia) và là sự cứu giúp và nâng đỡ (diakonia). Nếu được đặt vào trong một biểu đồ, tiến trình có thể được trình bày súc tích như sau:


fr-vu-communication-theology-mh-03-1710131813.jpg

Những lời của Đức Giêsu giúp chúng ta đi vào một viễn tượng như thế:

  • Mt 11, 27: ‘Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai viết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho’

  • Ga 5, 19tt (nói với người Do Thái): ‘Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm thì người Con cũng làm như vậy. Quả vậy, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm’

  • Ga 6, 57: ‘Tôi sống nhờ Chúa Cha …’

  • Ga 8, 29: ‘… Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi cô độc’

  • Ga 10.38: ‘Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha’

  • Ga 10, 30: ‘Tôi và Chúa Cha là một’

  • Ga 11, 41: ‘Lạy Cha … vì Cha đã nhậm lời con…’

  • Ga 12, 49tt: ‘Thật vậy, không phải tự mình tôi nói ra, nhưng chính là Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì … Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi’

  • Ga 14, 9tt (nói với Philipphê): ‘Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha … Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?’

Những lời khác đưa Chúa Thánh Thần vào trong sự hiệp thông tình yêu này:

  • Ga 14, 16tt: ‘Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đến ở cùng anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật …’

  • Ga 14, 26: ‘Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đá nói với anh em’

  • Ga 15, 26: ‘Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy’

Từ những lời của Tin Mừng toát lên rằng, ý nghĩa của sự hiệp thông và “trao đổi nền tảng thì ở ngay trong mầu nhiệm của Thiên Chúa và ở nơi cội rễ mọi sự truyền thông của con người. Trong sự hiệp thông Ba Ngôi, sự đối thoại giữa các Ngôi Vị luôn diễn tiến. Chúng ta có thể nói rằng, trong Chúa Ba Ngôi, cả Ba Ngôi Thiên Chúa càng là những ngôi vị hiệp thông thống nhất với nhau thì càng có một sự hiệp thông với tính cách những ngôi vị khác nhau. Đây là cách mà mỗi người trong chúng ta đều nhận biết cùng một điều tương tự, càng sống căn tính thích hợp qua đối thoại thì ta càng là món quà với và qua người khác.”

Theo quan điểm của Carlo M. Martini (1990, 26, 27), con người là những hữu thể truyền thông do sự truyền thông Ba Ngôi vì lẽ rằng chúng ta được tạo dựng theo “hình ảnh và giống như Người” (St 1, 26; Kn 2,23). Sự đồng dạng truyền thông với Thiên Chúa này cũng làm cho sự đối thoại với Người trở nên khả dĩ, và cũng là nền tảng cho bất cứ sự truyền thông nào của con người. Bất cứ tội lỗi nào cũng là nguyên nhân gây nên sự đứt quãng của đối thoại này. Tội lỗi bằng cách này là một dấu hiệu của sự không-truyền thông. Theo Martini, ngay cả cái khởi đầu của bất cứ sự sống nhân loại nào cũng đều là hoa trái của sự đối thoại truyền thông giữa Thiên Chúa và cha mẹ.

Bernhard Hӓring (1979, 155) bày tỏ cùng một xác tín như thế qua những lời sau đây: “Đức Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, mặc khải đời sống của Thiên Chúa như là sự truyền thông, sự chia sẻ. Người cầu nguyện, ‘Tất cả những gì con có đều là của Cha, tất cả những gì Cha có đều là của con’ (Ga 17, 10). Việc Người sẻ chia chính mình và toàn bộ chân lý phát sinh từ sự chia sẻ tuyệt đối giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sự chia sẻ, là sự truyền thông. ‘Khi nào Thần Khí Sự Thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại …’ (Ga 16, 13-15). Truyền thông là căn bản trong mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mỗi Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa sở hữu tất cả những gì là thiện hảo, tất cả những gì là chân thật, tất cả những gì là tuyệt mỹ, nhưng trong thể thức hiệp thông và truyền thông. Sáng tạo, cứu chuộc, và thông truyền đều phát sinh từ mầu nhiệm này và có mục đích cuối cùng là đưa chúng ta, qua chính sự truyền thông này, vào trong sự hiệp thông với Thiên Chúa. Sáng tạo chúng ta theo hình ảnh và giống như Người, Thiên Chúa biến chúng ta thành những người chia sẻ sự truyền thông sáng tạo và tự do của Người trong sự hiệp thông, nhờ sự hiệp thông, và vì sự hiệp thông.”

Trong quá trình suy tư thần học, đã có có nhiều nỗ lực để hiểu tốt hơn và sâu hơn sự hiệp thông nội tại của Ba Ngôi. Karl Rahner nói đến một số trong những nỗ lực ấy như là suy lý tâm lý học và cảm thấy rằng việc suy lý như thế “bất luận như thế nào cũng có bất lợi là trong giáo lý về Ba Ngôi nó không thực sự gây nên đủ ảnh hưởng đối với điểm khởi đầu trong lịch sử mặc khải và tín điều vốn hiện diện trong kinh nghiệm lịch sử và có tính cứu độ về Chúa Con và Chúa Thánh Thần như là thực tại của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho chúng ta… Lý thuyết tâm lý học về Ba Ngôi bỏ qua kinh nghiệm về Ba Ngôi trong nhiệm cục cứu độ, hỗ trợ cho một suy lý có vẻ gần như là ngộ đạo về điều diễn ra trong sự sống nội tại của Thiên Chúa. Đang khi ấy, nó lại thực sự quên rằng dung mạo của Thiên Chúa hướng tới chúng ta qua việc Người tự thông ban chính mình, theo bản chất Ba Ngôi của sự gặp gỡ này, là chính hữu thể của Thiên Chúa như Người là trong chính Người, và cần phải là, nếu quả thực việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong ân sủng và vinh quang thực sự là sự truyền thông của Thiên Chúa trong chính bản thể Người cho chúng ta” (1978, 135). Sau đó, ông kết luận: “Do đó, xác quyết rằng cùng một Thiên Chúa duy nhất hiện diện cho chúng ta như là Cha, Con và Thánh Thần và rằng Chúa Cha trao ban chính mình cho chúng ta trong sự tự thông ban chính mình tuyệt đối nhờ Chúa Con trong Chúa Thánh Thần phải được hiểu và phát biểu theo đúng nghĩa chặt như là những xác quyết về Thiên Chúa như Người là trong chính Người. Vì nếu không thì về căn bản chúng sẽ không phải là những xác quyết về việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình” (137).

Một diễn tả sự truyền thông của Ba Ngôi và việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho nhân loại trong nghệ thuật Kitô giáo qua các thế kỷ là sự trình bày của điều gọi là Mercy Seat (Ngai Tòa Thiên Chúa; tiếng Đức: Gnadenstuhl). Căn cứ vào Thư gửi tín hữu Do Thái (9, 5), khi mô tả Hòm Bia Giao Ước, Martin Luther đã sử dụng cách diễn đạt này rồi. Martini mô tả một ví dụ như thế từ Sta. Maria Novella tại Florence và gọi đó là một “biểu lộ việc làm tột đỉnh của sự truyền thông của Thiên Chúa” và là một “biểu lộ không thể trổi vượt hơn của sự truyền thông Thiên Chúa” (số 24, trang 44 tt): Chúa Cha trao nộp Chúa Con trên Thánh Giá trong một hành vi yêu thương không giới hạn: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta…” (Rm 8, 32); “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4, 9). Tại tâm điểm, giữa Chúa Cha và Chúa Con, là chú chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần như là một dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con và như là hoa trái của hồng ân sự sống trong Đức Giêsu. “Cũng chính Chúa Thánh Thần là Đấng ‘mở ngỏ’ Ba Ngôi cho thế gian và đồng thời kết hợp thế gian lại với Chúa Con và Chúa Cha” (Martini). Có hàng trăm bức hình minh họa như thế trong lịch sử nghệ thuật Kitô giáo và ngay cả thời hiện đại, điều đó lại trở nên rất phổ biến như được thấy nơi một số món đồ lưu niệm trong dịp mừng Đại Năm Thánh 2000. Trong lịch sử phụng vụ, minh họa cho Ngai Tòa Thiên Chúa đã rất thường được dùng để làm sáng tỏ những mẫu tự đầu tiên của Kinh nguyện Thánh Thể trong sách lễ Roma: “Te igitur…” (Kirchbaum 1968, I, 535)

Chiều kích mặc khải

Ngay từ trang đầu tiên của Kinh Thánh, Thiên Chúa là một Thiên Chúa truyền thông. Sự tự-truyền thông nội tại trong Ba Ngôi mở rộng thành một đối thoại và truyền thông với những thụ tạo nhân loại mà Người đã tạo dựng theo hình ảnh và giống như mình. Thiên Chúa đối thoại với Adam và Eva trong vườn địa đàng, với Abraham, Môsê và các Ngôn sứ. Những con đường và phương thế truyền thông của Người với con người thật nhiều và đa dạng. Người nói bằng những lời và việc làm, trong từng khoảnh khắc và suốt những diễn biến lịch sử ngang qua thời gian. Thiên Chúa của Cựu Ước là một Thiên Chúa truyền thông, Đấng đã trở nên đối tác trong cuộc đối thoại với các thụ tạo của Người. Caspar Von Stieler, tác giả của cuốn sách đầu tiên về “nghề làm báo” tại Đức viết trong chương III cuốn Zeitungs Lust und Nutz (1697) như sau: “Thiên Chúa tối cao là phát ngôn viên đầu tiên và theo sau là các sứ giả của Người, các Ngôn sứ trong thời Cựu Ước, các Tông đồ trong Tân Ước, cho thấy rằng Người yêu quý các tin tức (các sứ điệp) và muốn chúng được lan rộng ra khắp thế gian.”

Thiên Chúa truyền thông cách đặc biệt trên hai cấp độ: tạo dựng và ân sủng. Toàn bộ tạo thành là sự truyền thông công khai của Thiên Chúa như Thánh vịnh 19, 2 – 5 nói với chúng ta. Theo Bernard Häring, lịch sử nhân loại là trải rộng của sự truyền thông này (1972, 39). Đó là “sự hiện diện năng động của lời sáng tạo.”

Hiến chế của Công đồng Vatican II về Mặc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum mô tả sự kiện này bằng những lời sau đây: “Bằng cách mạc khải, Thiên Chúa đã muốn biểu lộ và thông ban chính mình Người cùng những ý định muôn đời của Người liên quan đến việc cứu độ nhân loại, ‘nghĩa là cho người ta được tham dự vào các của cải của Thiên Chúa hoàn toàn vượt quá trí hiểu loài người’”. (số 6).

Mặc Khải này qua một thời kỳ dài đã được xem như là một “bộ sưu tập các chân lý mặc khải, sẽ lưu truyền giống như một bưu kiện được gửi đi và tương tác từ nước này đến nước kia.” “Cái nhìn có tính gợi ý này về Mặc Khải của Thiên Chúa” mang một chiều kích truyền thông trong việc lưu truyền chân lý và “thông tin” mặc khải là những điều cần phải được truyền thông. Nhưng khái niệm gần đây hơn về sự mặc khải như là một gặp gỡ hay đối thoại liên vị thậm chí mang một chiều kích và ý nghĩa truyền thông sâu xa hơn đối với bất cứ truyền thông Kitô giáo nào: Thiên Chúa không chỉ đang mặc khải chân lý như là một điều gì đó về Người mà Người còn đang mặc khải chính mình. Theo cách hiểu này, mặc khải là một mẫu thức gặp gỡ ngôi vị-với-ngôi vị, chủ thể-với-chủ thể, “Tôi”-với-“Ngài”. Ở đây, vấn đề không còn là điều gì được truyền thông nữa, mà là ai truyền thông. Cũng trong Thần học về Ân sủng, điều gì được đón nhận không còn là điều ưu tiên nữa mà là ai được đón nhận. “Nhiều hơn là việc đón nhận ‘các sự vật,’ ân sủng có nghĩa là một tương quan cá vị mới,” tức là, sự truyền thông “với Thiên Chúa” (O’Collins 1981, 55; x. Soukup 1983, 50tt).

Ở khía cạnh này, mặc khải là sự đối thoại và truyền thông có tính mặc khải và cứu độ giữa Thiên Chúa và con người. Qua việc ngỏ lời với chúng ta, Thiên Chúa nói những điều mà chúng ta có thể công thức hóa và truyền lại cho những người khác.

Gisbert Greshake (1999, 21tt) chỉ rõ chiều kích truyền thông của Ba Ngôi trong Mặc Khải khi ông viết: “Đối với người Kitô hữu, cách hiểu về mặc khải được xem xét dưới ba chiều kích: 1. Chính Thiên Chúa vô biên là Cha mặc khải chính mình Người một cách không giới hạn cho con người để hợp nhất chính Người với họ trong cộng đoàn yêu thương mật thiết nhất; 2. Mặc khải này diễn ra trong Ngôi Lời – theo nghĩa rộng – trong một cách thế hoàn toàn con người để tất cả chúng ta có thể hiểu. Tại chóp đỉnh sự tự mặc khải này của Thiên Chúa, Ngôi Lời xuất hiện nơi Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa trở nên người phàm, trong Người Con này, Thiên Chúa biểu lộ và thông ban chính mình Người một cách trọn vẹn và không do dự; 3. Sự đón nhận và hiểu biết về Ngôi Lời Thiên Chúa diễn ra bên trong con người theo cách thức của Thiên Chúa, nghĩa là, sự đón nhận có tính cá nhân và chủ động Ngôi Lời Thiên Chúa diễn ra bởi quyền năng hoạt động của Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần. Chỉ khi nào cả ba “khoảnh khắc” này cùng diễn ra thì người ta mới có thể nhận ra, mà không mâu thuẫn, rằng Thiên Chúa không mặc khải một điều gì đó về Người, nhưng đúng hơn, Người thông ban chính mình Người, theo đúng nghĩa đen, trong một tình yêu vô hạn và chở che con người trong sự sống Thần Linh của Người. Bởi vậy, hiểu theo nghĩa sự tự thông ban triệt để, mặc khải giả định một sự hiểu biết có tính Ba Ngôi về Thiên Chúa. Chỉ khi Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật thì Người mới có thể mặc khải Thiên Chúa và đem chúng ta tới gần Người được. Lúc ấy, cộng đoàn duy nhất ở cùng với Giêsu Kitô cũng chính là cộng đoàn ở cùng với Thiên Chúa. Và chỉ khi Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa thật thì Người mới có thể mở ngõ con người ra với Thiên Chúa và kéo họ vào trong đời sống của Thiên Chúa.”

Mặc khải không chỉ được truyền lại giống như thông tin hay một sự trao đổi và chia sẻ ý nghĩa qua những dấu chỉ của Mặc Khải. Mặc Khải Kitô giáo phải được hiểu cách rốt ráo, cũng như ơn cứu độ, nơi “những dấu chỉ” mặc khải rốt cuộc mang lại ân sủng của Thiên Chúa: Ngôi Lời Thiên Chúa “biểu thị và truyền thông gì thì nó cũng đem lại điều mà nó biểu thị và tạo nên sự truyền thông có tính cứu độ giữa Thiên Chúa và con người (O’Collins 1981,158). Tông huấn Evangelii Nuntiandi nói về Ngôi Lời như là “Đấng mang quyền năng của Thiên Chúa” (42). Như thế, truyền thông Kitô giáo trong khía cạnh mặc khải trở thành một quyền năng cứu độ. Sự mặc khải và truyền thông của Thiên Chúa không phải là việc chuyển trao “thông tin” nhưng đó quả thực là một tiến trình đối thoại với những hiệu quả cụ thể trong đời sống giống như các bí tích và mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa.

Tiến trình đối thoại của mặc khải xây dựng trên các phương thế chung của và cho truyền thông con người giống như các giác quan của con người. Sự mặc khải và truyền thông của Thiên Chúa diễn ra thông qua tất cả các giác quan của con người như thánh Gioan phát biểu trong thư thứ nhất của ngài (1Ga 1, 1-3):

Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu,

điều chúng tôi đã nghe,

điều chúng tôi đã thấy tận mắt,

điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,

và tay chúng tôi đã chạm đến,

đó là Lời sự sống.

Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày,

chúng tôi đã thấy và làm chứng,

chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời,

sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha

và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi.

Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe,

chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa,

để chính anh em

cũng được hiệp thông với chúng tôi,

mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha

và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người.

Trong kinh nghiệm hoán cải cá nhân của mình, thánh Augustino mô tả cách thức mà, thông qua tất cả năm giác quan như phương tiện truyền thông của con người, Thiên Chúa đã mặc khải chính Người cho ngài:

Ngài đã kêu con; Ngài đã lớn tiếng gọi con; Ngài đã phá tan sự điếc lác của con. Ngài đã chiếu tỏa ánh sáng Ngài trên con; hào quang của Ngài đã bao phủ lấy con; Ngài đã xua tan sự mù lòa của con. Ngài đã tỏa ngát hương thơm Ngài xung quanh con; con đã hớp lấy và con khát khao hương thơm ngọt ngào của Ngài. Con đã cảm nếm Ngài, và con đói khát Ngài. Ngài đã chạm đến con, và con bị thiêu đối bởi tình yêu an bình của Ngài. (Tự thuật, X, 27. Trong: O’Collins 60).

Trong cả hai ví dụ, sự truyền thông trực tiếp đang diễn ra giữa Thiên Chúa và con người. “Thánh Gioan và Augustino nói về những biến cố mà các ngài bị cuốn hút một cách cá vị và sâu xa vào trong đó; đấy không phải là những mảnh vụn thông tin mà các ngài đã gián tiếp thu lượm được từ một chuyên gia nào đó, cũng không phải là những kết luận mà các ngài đã đạt được nhờ biện luận. Các ngài ý thức rất rõ khi những kinh nghiệm này xảy đến cho các ngài. Những kinh nghiệm này hé lộ cuộc sống của các ngài là gì và sẽ là gì. Toàn bộ hiện hữu của các ngài đều bị tác động; chúng ta có thể nhận ra một cấu trúc với nhiều cấp độ trong điều các ngài đã trải qua. Những trình thuật của các ngài cho chúng ta thấy cách thức – theo các mức độ khác nhau – mà các giác quan, trí năng, những cảm xúc, ý chí, trí nhớ và ký ức và những năng lực khác của con người bị cuốn hút vào” (O’Collins 1981, 61). Những ví dụ này cho thấy không những cách thức mà mặc khải xay dựng trên khả năng của con người dành cho truyền thông, mà còn cách thức mặc khải của Thiên Chúa được truyền thông theo các con đường khác nhau cho những con người khác nhau và cách thức mà họ chuyển trao sự truyền thông của Thiên Chúa trong và qua cuộc sống họ. “Giống như những cách thức và thời điểm của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình, các trung gian và sứ giả của mặc khải cứu độ ấy đã và vẫn vô cùng đa dạng” (67). Như thế, việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình tiếp tục diễn ra bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu ơn cứu độ được kinh nghiệm.

Hướng Dẫn Tổng Quát dành cho các giáo lý viên (1997) mô tả Thiên Chúa như Đấng “thật sự mặc khải chính mình Người như là Đấng khao khát thông ban chính mình, làm cho con người được tham dự vào bản tính Thần Linh của Người. Bằng cách này, Thiên Chúa hoàn thành kế hoạch Yêu Thương của Người …” (số 36). Dựa theo thánh Irene thành Lyon, tài liệu lưu ý thêm nữa rằng: “Thiên Chúa, trong sự cao cả của mình, sử dụng một khoa sư phạm nhằm mặc khải chính mình Người cho con người: Người dùng các biến cố và lời nói của con người để truyền thông kế hoạch của Người; Người làm như thế một cách tiệm tiến và theo các giai đoạn, để thậm chí lôi kéo con người đến gần mình hơn. Trên thực tế, Thiên Chúa thực hiện theo cách như thế để con người đi tới nhận biết kế hoạch cứu độ của Người nhờ các phương thế và biến cố của lịch sử cứu độ cùng những lời được linh hứng kèm theo và giải thích chúng.” “Nhiệm cục cứu độ này được thực hiện bằng các việc làm và lời nói có liên hệ mật thiết với nhau, theo nghĩa là các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu độ biểu lộ và củng cố cả giáo huấn lẫn những thực tại được diễn tả bởi các lời; còn các lời thì công bố các việc làm và làm sáng tỏ mầu nhiệm được chứa đựng trong đó” (DV 2). Ấn bản trước kia của Hướng Dẫn (1971) viết: “Bởi vậy, mặc khải là một sự kết hợp các sự kiện và lời nói, những lời nói chiếu soi các sự kiện và các sự kiện giải thích cho những lời nói. Thừa tác vụ của Lời chính là công bố Lời Chúa theo cách thức sẽ làm sáng tỏ hơn và truyền thông các mầu nhiệm nền tảng mà Lời ấy chứa đựng. Bằng cách này, thừa tác vụ Lời Chúa nhắc lại sự mặc khải những kỳ công của Thiên Chúa được thực hiện theo thời gian và được hoàn tất trong Đức Kitô, nhưng nó cũng làm sáng tỏ, dưới ánh sáng của mặc khải, sự hiện hữu của con người ngày nay, những dấu chỉ của thời đại và những vấn đề của thế giới, bởi vì kế hoạch của Thiên Chúa hoạt động trong chúng cho ơn cứu độ của con người” (11).

Mặc khải là biến cố thánh thiêng và cùng lúc cũng là biến cố truyền thông của con người: lắng nghe và đáp lại. Đó là sự tác động và phản hồi … Tuy nhiên, truyền thông con người phản chiếu chỉ một cách rất giới hạn truyền thông hoàn hảo của Thiên Chúa. Như một hệ quả, Bernhard Haering nhắc nhở chúng ta rằng, thần học cần phải hòa mình vào trong “nhịp điệu truyền thông xã hội của nhân loại, cũng như vào trong các vấn đề và ngôn ngữ của thế giới hiện tại. Do đó, biết được ngôn ngữ của con người ngày nay là một điều kiện tiên quyết đối với mọi truyền thông Kitô giáo. Trong việc chuyển trao mặc khải của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải đáp trả lại điều mà con người đòi hỏi. Khoa chú giải quan tâm tới việc mang mặc khải và ‘Lời’ của lịch sử vào trong đời sống con người hôm nay” (1997, 46).

Martini (1990, số 30tt, 58tt) nhận ra những tiêu chuẩn tổng quát sau đây cho việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình vốn cũng cần phải được xem như một căn bản đích thật cho bất cứ sự truyền thông nào của con người và của Kitô giáo:

  1. Việc Thiên Chúa thông ban chính mình được chuẩn bị trong sự thinh lặng và bí nhiệm của Người. Đó là sự “mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa” (Rm 16, 25), đó là một mầu nhiệm, “mầu nhiệm này được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa là Đấng tạo thành vạn vật” (Ep 3,9).

  2. Việc Thiên Chúa thông ban chính mình cho con người có tính tiệm tiến, không ngừng tích lũy và mang tính lịch sử. Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho chúng ta không được thực hiện trong một chốc lát mà đúng hơn gồm chứa các thời điểm thăng trầm khác nhau. Nó diễn ra trong mọi tình huống của thế giới chúng ta, một thế giới cũng bị đổi thay theo cách như vậy. Sự thông ban chính mình của Thiên Chúa được thực hiện qua các lời nói và sự kiện, vốn là những điều cũng được phản chiếu trong lịch sử cứu độ như được tường thuật trong Kinh Thánh, đó là cuốn sách tự thông ban của Thiên Chúa.

  3. Việc Thiên Chúa thông ban chính mình hiện thực hóa chính nó trong tiến trình lịch sử theo một đường lối biện chứng. Sự thông ban này không liên tục từ vinh quang đến vinh quang trong một vầng sáng mà không có tối tăm. Đúng hơn, có một sự pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối, và chỉ duy một sự giải mã kiên trì những lời nói và sự kiện qua thời gian mới có thể đưa tới sự hiểu biết đầy đủ về sự thông ban của Thiên Chúa. Điều kiện là phải chấp nhận cách tự do những bước đi Người, sắp xếp chúng cho có trật tự và bước theo. Bất cứ sự truyền thông nào cũng đều tiến từng bước một, thận trọng và tôn trọng người khác.

  4. Việc Thiên Chúa thông ban chính mình không đạt tới trọn vẹn ở đây, trên trái đất này. Người ta phải phân biệt giữa truyền thông “in via” và truyền thông “in patria.” Sự thông ban của Thiên Chúa trên trái đất có giá trị trong việc nếm trước điều sẽ đến vào lúc thời gian viên mãn khi mà “Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3, 2). Mọi truyền thông trong lịch sử đều không trọn vẹn trong cái nhìn hướng về sự viên mãn cuối cùng của Nước Thiên Chúa. Điều đó cũng có nghĩa là trong thế giới này, chúng ta sẽ không bao giờ biết người khác hoàn toàn theo cách họ là. Sẽ luôn có một bí mật, một không gian riêng không thể được làm sáng tỏ hoàn toàn, ngay cả nơi chính bản thân chúng ta.

  5. Việc Thiên Chúa thông ban chính mình có tính cá vị. Thiên Chúa thông ban chính mình Người, chứ không phải một điều gì khác. Mọi thứ Người thông ban ra ngoài chính mình Người đều là một dấu chỉ và biểu tượng của ý muốn thông ban chính mình của Người như một tặng phẩm siêu phàm. Đồng thời, sự thông ban này cũng có tính liên vị, bởi vì nó đòi hỏi con người cần phải đón nhận tặng phẩm này. Điều này cần tới sự chú tâm, đón nhận và lắng nghe bởi vì không có đáp trả và phản hồi thì cũng không hề có truyền thông đích thực. Thiên Chúa hằng sống kêu gọi con người sống động đánh thức niềm tin và hy vọng.

  6. Sự thông ban của Thiên Chúa cuối cùng mang lấy mọi hình thức truyền thông liên vị. Sự thông ban của Người có tác dụng nâng cao tri thức, lôi cuốn và cùng lúc là thông ban chính mình. Thiên Chúa khai mở – mặc khải về chính mình Người và cuốn hút con người nhờ việc kêu gọi, thề hứa, cảnh cáo và khiển trách; nhưng toàn bộ sự thông ban của Người cuối cùng là sự thông ban chính mình bởi vì điều mà Người thực sự muốn thông ban là chính bản thân Người.

Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium nói rằng “những kẻ đang tìm kiếm Thiên Chúa trong bóng tối và qua ngẫu tượng, Thiên Chúa mà họ không biết, cả những kẻ ấy, Người cũng không xa họ, bởi vì chính Người ban cho mọi người sự sống, hơi thở và tất cả mọi sự, và vì là Ðấng Cứu Thế, Người muốn mọi người đều được cứu rỗi.” Trong ánh sáng của giáo huấn này, việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong Mặc Khải tiếp tục đi vào trong thời đại của chúng ta và vượt ra ngoài phạm vi Kitô giáo, vào trong những tôn giáo không phải là Kitô giáo. “Giáo Hội xem tất cả những gì là chân thiện nơi họ như để chuẩn bị họ lãnh nhận Phúc Âm, và như một ân huệ mà Ðấng soi sáng mọi người ban cho hầu cuối cùng họ được sống…” (LG số 16). Mặc khải có thể được nhìn theo chiều hướng như là một sự chuẩn bị cho sự truyền thông nhập thể của Đức Giêsu Kitô.

Chiều kích nhập thể

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã nói trước qua các lời nói và việc làm, và dùng những con người như các ngôn sứ làm những sứ giả của Người. Người hiện diện trong giao ước với Israel. Tuy nhiên, sau cùng Người đã nhập thể trong ‘Ngôi Lời’ (Logos) trở nên người phàm. Sự thông ban của Thiên Chúa diễn ra trong lịch sử nhờ việc Đức Giêsu Kitô trở nên một người trong chúng ta. Việc Đức Kitô trở nên người phàm thì “còn hơn là sự thể hiện của những ý tưởng và sự biểu lộ cảm xúc. Ở mức độ sâu thẳm nhất, đó là sự trao ban chính mình trong tình yêu,” như Hướng dẫn mục vụ Communio et Progressio nói: “Khi ở trên trái đất, Đức Kitô đã mặc khải chính mình Người như là Đấng truyền thông hoàn hảo. Qua sự nhập thể, Người đồng nhất một cách tuyệt đối với những ai đón nhận sự thông ban của Người và Người đã trao ban sứ điệp của Người không chỉ bằng lời nói mà còn bằng toàn bộ cách cư xử trong đời sống Người. Người đã nói từ bên trong, nghĩa là, thoát ra khỏi sức ép của dân tộc Người. Người đã rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa mà không sợ hãi hay thỏa hiệp. Người đã điều chỉnh lại cách phát ngôn và khuôn mẫu suy nghĩ của dân Người. Và Người đã nói rõ về tình trạng gay go của thời đại họ” (Communio et Progressio 11).

Sự nhập thể của Thiên Chúa qua Con của Người, Đức Giêsu Kitô, ở ngay tại trung tâm của bất cứ sự truyền thông Kitô giáo nào: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1, 1 – 3). Với những lời này, Đức Giêsu phải được xem là Đấng truyền thông và là ánh hào quang đích thực của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho con người.

Sự tự thông ban chính mình của Thiên Chúa trở thành xác phàm trong Con của Người, Đức Giêsu Kitô, như là sự diễn tả cao cả nhất của “sự trao ban chính mình trong tình yêu” của Người. Trong hành vi này, Người đồng nhất với những ai đón nhận sứ điệp của Người. Đây là một số minh họa về cách thức mà Đức Giêsu Kitô đã truyền thông “ra bên ngoài sức ép của dân Người” (Communio et Progressio 11):

  1. Những hoàn cảnh của cuộc đời Đức Giêsu Kitô theo đúng nghĩa phải được xem như là sự truyền thông, giống như cách thức đơn giản của việc Người ra đời, của những năm ẩn dật của Người tại Nazareth như là sự chuẩn bị cho hoạt động công khai của Người, địa vị xã hội của Người như là con bác thợ mộc, 40 ngày trong hoang địa, còn cả cái chết của Người trên thập giá nữa.

  2. Trong hoạt động công khai và những giai đoạn trực tiếp công bố Tin Mừng, Đức Giêsu chia sẻ sứ điệp của Người về Nước Trời và kêu gọi hoán cải ở bất cứ nơi nào Người đi qua như một nhà giảng thuyết lưu động: vì lý do đó, Người được tìm thấy tại các hội đường và đền thờ cũng như tại các khu chợ, trên đường phố, tại các tư gia, còn cả bên bờ hồ và trên các triền núi. Bất cứ nơi nào Người đi qua, Người trở nên sự thể hiện của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình qua lời nói và việc làm.

  3. Các phương tiện được Đức Giêsu sử dụng cho việc truyền thông bao gồm mọi loại truyền thông không lời và bằng lời trong thời đại và nền văn hóa của Người. Người truyền thông không lời nhờ các hành động như các phép lạ, việc chữa lành, đụng chạm, viết trên cát, đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ v.v… Như thế, các hành động của Người có thể là sự truyền thông trực tiếp hay có tính biểu tượng, biểu lộ một ý nghĩa sâu xa hơn. Người truyền thông bằng lời trong việc rao giảng, dạy dỗ, đối thoại, những cuộc chia sẻ nhóm như với các môn đệ của Người và sự tiếp xúc cá nhân như với ông Nicodemo. Lời giảng của Người sử dụng không những các dụ ngôn, phép ẩn dụ, các châm ngôn, chuyện kể và những tham chiếu đến các kinh nghiệm đời sống thường ngày mà còn cả cách diễn đạt giản dị.

  4. Có một số nguyên tắc bên dưới trong sự truyền thông của Đức Giêsu Kitô khiến cho Người truyền thông tương tự như bất cứ sự truyền thông Kitô giáo được thù và được bén rễ thần học sâu xa nào:

  • Lời cầu nguyện và mối tương quan của Đức Giêsu với Cha của Người phải được xem là nền tảng sự truyền thông của Người cho con người. Bất cứ điều gì Người làm và nói đều hướng tới Abba-Cha, Đấng mà Người cầu nguyện trong suốt những đêm và những giờ thinh lặng tại các nơi vắng vẻ.

  • Trong sự truyền thông của Người, Đức Giêsu luôn bắt đầu từ đời sống và kinh nghiệm sống của dân Người. Người được định hướng là người đón nhận-lắng nghe nhưng cùng lúc cũng làm cho sứ vụ của mình bén rễ từ nơi Chúa Cha.

  • Sự truyền thông của Đức Giêsu được ghi trong Thánh Kinh. Người tỏ lộ trong sự truyền thông của Người cách thức mà thông điệp và sứ vụ của Người được chuẩn bị trước trong giao ước cũ của Israel.

  • Đức Giêsu cũng truyền thông qua việc hỏi và trả lời. John Wijngaards đã đếm được 161 câu hỏi chỉ trong Tin Mừng theo thánh Gioan. Chúng không phải là những phương pháp tu từ, nhưng Đức Giêsu vận dụng chúng như “một phương tiện để đem người ta tới sự hiểu biết. Ngay cả những truyền thống nhất lãm súc tích cũng lưu giữ nhiều trường hợp cá biệt mà trong đó Đức Giêsu đối lại một câu hỏi bằng một câu hỏi khác. Những câu hỏi phải được xem là một yếu tố làm đầy đủ giáo huấn của chính Đức Giêsu” (1986, 37tt).

  • Đức Giêsu khiến cho người ta phải suy nghĩ và thách đố họ theo những đường lối truyền thông khác biệt để họ được trở nên trung thực trong cuộc sống họ và trước mặt Thiên Chúa. Họ bị thách đố phải xếp đặt những ưu tiên đúng đắn trong đời sống mình. Người vạch trần những chiếc mặt nạ của các truyền thông nhân loại, khuyến khích và đòi hỏi những quyết định rõ ràng như khi Người mời gọi người thanh niên giàu có làm môn đệ Người (x. Mt 8, 19tt; Lc 14, 26tt; Mc 10, 17). Người khiển trách những người không dám đối diện với thực tế đời sống và ơn gọi của họ (x. Lc 12, 56; Mc 8, 17tt; Mt 23, 13).

  • Đức Giêsu cũng truyền thông theo lối biện chứng chính đề và phản đề đặc biệt rõ ràng trong Bài giảng Trên Núi: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng … Còn Thầy, Thầy bảo thật anh em …” (Mt 5, 43tt). Nước Trời thì tách biệt khỏi ‘Nước’ của thế gian này!

  • Đức Giêsu đưa người ta vào cuộc khủng hoảng và xung đột nhưng nhắm mục tiêu thay đổi và hoán cải họ; cuối cùng thì đó không chỉ là một sự chia sẻ thông tin mà còn là chia sẻ

  • cuộc sống.

  • Trong sự truyền thông của Đức Giêsu, Người nhắc nhở và khuyên bảo người ta về phẩm giá của họ, về bổn phận của họ, về con người được Chúa Cha yêu thương của họ.

  • Đức Giêsu cổ võ và mời gọi hướng tới sự hiệp nhất và nên một với Thiên Chúa và tha nhân. Người phục hồi lại sự truyền thông bị bẻ gãy hay phá vỡ bởi tội lỗi. Nhiều phép lạ chữa lành của Đức Kitô cần phải được nhìn như một sự canh tân và tái lập truyền thông: làm cho sáng mắt, chữa lành bệnh tật, đi trên mặt nước (x. Lc 8, 27; 11, 14; Mc 2, 22tt).

  • Sự truyền thông của Đức Giêsu có một chiều kích cánh chung luận: sự truyền thông của Người đạt tới sự viên mãn của nó chỉ vào ngày tận thế.

Gisbert Greshake (1999, 68) nối kết viễn tượng Nhập Thể với hiểu biết có tính Ba Ngôi về sự truyền thông khi ông viết: “Mục đích của việc Thiên Chúa trở nên Con Người trong Đức Giêsu Kitô không chỉ nhằm dạy dỗ chúng ta để cuối cùng chúng ta nhờ vào Con Thiên Chúa mà biết Thiên Chúa là Đấng nào và Người đòi hỏi điều gì từ chúng ta. Việc Nhập thể cũng không chỉ nhắm mục tiêu cứu chuộc chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Toàn bộ việc này là như vậy, nhưng vẫn còn đó một điều gì đó khác có tính quyết định hơn: đó thực ra là sự truyền thông vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và Con Người, điều không thể sâu sắc hơn. Đấng Tạo Hóa muốn ban tặng chính Người cho chúng ta trong Ngôi Lời và Thánh Thần của Người mà không giữ lại điều gì, để bằng cách này, qua việc chấp nhận mối thân tình được hiến dâng, chúng ta trở nên các con trai và con gái trong Con của Người, và như thế, đạt tới mục tiêu cuối cùng của toàn thể công trình sáng tạo: trở thành một phần của tương quan hỗ tương (sự truyền thông) vĩnh cửu xinh đẹp bên trong đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.”

Một số người đã ngờ vực việc Đức Kitô như là Đấng truyền thông hoàn hảo vì Người đã không thể thuyết phục dân của chính mình hay hoán cải các luật sĩ và người Pharisêu trong thời Người. Thế nhưng, sự truyền thông của Người không thể bị đo lường bởi những nguyên lý và sự thành công nhân loại, nhưng đúng hơn phải được nhìn trong ánh sáng đức tin. Trong viễn tượng này, cái chết và sự phục sinh cũng thuộc về sự truyền thông của Ngôi Lời, Đấng mặc khải những nguyên lý và ưu tiên khác hơn là những nguyên lý và ưu tiên được phát triển bởi con người. Theo lối nhìn của Kitô giáo, không phải bậc vĩ nhân và thủ lãnh của thế gian này nhưng là người nghèo và kẻ bị ức hiếp mới là người được dự phần vào sự truyền thông và nhập thể tình yêu của Thiên Chúa theo một cách thức đặc biệt. Truyền thông Kitô giáo không thể tồn tại mà không có Thánh Thần của Thiên Chúa như là trái tim và trung tâm điểm của toàn bộ việc truyền thông. Thánh Gioan Kim Khẩu, trong một bài giảng về thư thứ nhất của thánh Phaolo gửi tín hữu Corinto, chỉ ra trong chỉ thị này khi ngài viết về các Tông Đồ: “Vậy thì giải thích thế nào về sự kiện rằng những người này, những người mà trong cuộc đời dương thế của Đức Kitô đã không dám đương đầu với những tấn công của người Do Thái, đã dũng cảm tuyên chiến với cả thế giới ngay sau khi Đức Kitô chết – nếu, như bạn tuyên bố, Đức Kitô không trỗi dậy, nói chuyện với họ và khích lệ lòng can đảm của họ? Không chừng họ đã tự bảo nhau rằng: ‘Điều này là gì? Người đã chẳng thể cứu nổi chính mình mà sẽ bảo vệ chúng ta được hay sao? Người đã không thể giúp gì cho chính mình khi Người còn sống, mà bây giờ khi Người đã chết rồi lại có thể đưa tay ra trợ giúp chúng ta được hay sao? Trong suốt cuộc sống Người, Người đã chẳng đưa được dân tộc này đi theo đạo lý của Người, mà nhờ thốt ra danh Người chúng ta lại có thể chiến thắng cả thế giới hay sao?’ Sẽ chẳng hoàn toàn vô lý ngay cả khi nghĩ những tư tưởng như thế sao? Bởi thế, thật hiển nhiên rằng nếu họ đã không nhìn thấy Người đã chỗi dậy và đã chứng tỏ quyền năng của Người, thì họ sẽ không thể nào liều lĩnh đến như thế” (Bài đọc Kinh Sách lễ thánh Bartholomeo, 24 tháng tám).

Khía cạnh Nhập Thể của truyền thông Kitô giáo đòi hỏi việc nhập thể các hoành động cứu độ của Thiên Chúa vào trong cuộc sống hiện đại hằng ngày cũng như vào trong các nền văn hóa khác nhau. Ở đây, sự bối cảnh hóa và hội nhập văn hóa của Tin Mừng là những chiều kích quan trọng. Như Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa Cha, những kẻ bước theo Người cũng được kêu gọi để tiếp tục truyền thông sự cứu độ này qua việc truyền thông bằng lời và không lời. Sự Nhập Thể của Ngôi Lời lại tiếp diễn mỗi ngày trong cuộc sống và trong các nền văn hóa khác nhau của con người. Ở đây, sự truyền thông hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo phải được coi là một tiến trình truyền thông-nhập thể tiếp diễn (Eilers 2012). Điều này đòi hỏi việc sử dụng có ý thức những lối tiếp cận truyền thông “có tính nhập thể” được ghi khắc trong bản tính và xã hội của con người. Cố gắng nhập thể đức tin qua “Thần học thuật truyện” (x. Concilium 1973, 85; Novone 1976, 1984) còn là một cách thức đã được chính Đức Giêsu Kitô sử dụng…

Chiều kích Giáo Hội/ công bố Tin Mừng [Kerygma]

Việc Ba Ngôi Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong Mặc Khải và Nhập Thể được tiếp tục cho đến tận thế qua Giáo Hội. Giáo Hội là và phải là sự diễn tả và tiếp nối sống động sự truyền thông của Thiên Chúa vào trong bất cứ nền văn hóa và thời đại nào. Qua Giáo Hội, Mặc Khải của Thiên Chúa và sự Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô sẽ trải rộng xa hơn nữa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần bên trong koinonia và diakonia của người tín hữu như một kinh nghiệm và chứng tá sống động về sự truyền thông của Thiên Chúa hiện nay. Trong kerygma của mình, Giáo Hội tiếp tục công bố Tin Mừng theo một cách thế đặc biệt. Thượng Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh họp tại Puebla năm 1979 đã gọi Giáo Hội là “người được ủy thác và chuyển trao Tin Mừng” và còn nói xa hơn về Giáo Hội: “Trung thành với quy tắc nhập thể hữu hình, Giáo Hội nối dài trên trái đất sự hiện diện và hoạt động loan báo Tin Mừng của Đức Kitô. Giống như Đức Kitô, Giáo Hội sống để loan báo Tin Mừng. Gia sản thiện hảo và ơn gọi đặc thù của Giáo Hội chính xác là như thế này: công bố con người và sứ điệp của Đức Giêsu cho nhân loại” (224).

Công đồng Vatican II mô tả nghĩa vụ truyền thông của Giáo Hội qua những từ ngữ sau: “Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian duy nhất, đã thiết lập Giáo Hội thánh thiện, một cộng đoàn đức tin, cậy và mến, như một toàn bộ cấu trúc hữu hình trên trần gian mà Người không ngừng bảo vệ. Qua Giáo Hội, Người đổ tràn chân lý và ân sủng cho mọi người… Vì thế, nhờ loại suy xác thực, chúng ta có thể ví Giáo Hội với mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể” (Lumen Gentium 8). Giáo Hội ý thức rằng mình, như là thân thế Chúa Kitô, phải “loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Lc 4, 43) và tiếp bước thánh Phaolo khi tuyên bố rằng: “Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9, 16). Chính vì điều này, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (EN 1975) tuyên bố cùng với Thượng Hội Đồng về Tân Phúc Âm Hóa từ năm 1974 rằng: “Trên thực tế, việc loan báo Tin Mừng là ân sủng và là ơn gọi đích thực đối với Giáo Hội, là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội. Giáo Hội tồn tại để loan báo Tin Mừng, tức là, để rao giảng và dạy dỗ, để trở nên kênh dẫn truyền ân sủng, để giao hòa tội nhân với Thiên Chúa, để vĩnh viễn duy trì hy tế của Chúa Kitô trong Thánh Lễ vốn là sự tưởng niệm cái chết và sự Phục Sinh vinh hiển của Người” (14). Trong văn kiện này, Đức Giáo Hoàng Phaolo VI nối kết công cuộc Phúc Âm Hóa với hiện hữu thâm sâu nhất của Giáo Hội: được sinh nhờ hoạt động loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu và các Tông Đồ, Giáo Hội được sai đi để trở nên một dấu chỉ “của sự hiện diện mới mẻ của Đức Giêsu, của hành trình và sự hiện diện vĩnh viễn của Người. Giáo Hội kéo dài và tiếp nối sứ mạnh của Người. Và trên tất cả, chính sứ vụ và cuộc sống của Người như một người loàn báo Tin Mừng là điều mà Giáo Hội được kêu gọi để tiếp nối.” “Đời sống thâm sâu của Giáo Hội chỉ đạt được ý nghĩa trọn vẹn khi trở thành một chứng tá, khi gợi lên niềm kính phục và sự hoán cải, và khi trở nên lời rao giảng và công bố về Tin Mừng” (15).

Những phương thế truyền thông sự hiện diện của Đức Kitô là lời giáo huấn và rao giảng của Giáo Hội, nhưng một cách đặc biệt, sự truyền thông ân sủng Thiên Chúa của Giáo Hội biểu lộ nơi việc giao hòa tội nhân với Thiên Chúa và cử hành lễ tưởng nhớ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu (x. EN số 14). Tuy nhiên, qua lời giáo huấn và rao giảng này, Giáo Hội không thể thờ ơ với những tiềm năng truyền thông của thời đại chúng ta và Giáo Hội “sẽ cảm thấy có lỗi trước mặt Thiên Chúa nếu không tận dụng những phương tiện mạnh mẽ này” của truyền thông xã hội và đại chúng, điều mà kỹ năng của con người đang làm cho mỗi ngày một hoàn hảo hơn. Giáo Hội phải sử dụng những phương tiện này “cho lời công bố nguyên thủy về Tin Mừng, cho việc dạy giáo lý và xa hơn cho việc đào sâu đức tin” (EN số 45). Tuy vậy, cần phải lưu ý rằng vì nhiệm vụ và bổn phận này, Evangelii Nuntiandi không chỉ nhìn nhận các phương tiện truyền thông đại chúng như là những phương tiện truyền thông hiện đại, mà còn tất cả những kênh dẫn truyền và tiềm năng truyền thông khác trong xã hội con người, bắt đầu từ chứng từ về cuộc sống, một giáo huấn sống động, phụng vụ và việc dạy giáo lý cho tới sự gặp gỡ cá vị, vai trò của các bí tích và lòng sùng kính bình dân (40 – 48).

Trong cuốn Phương pháp thần học của mình, Bernard Lonergan nói đến sự truyền thông như một mối quan tâm chính yếu của Giáo Hội trong việc công bố đức tin của mình. Sau khi mô tả bảy chuyên ngành chức năng là: nghiên cứu, giải thích, lịch sử, biện chứng, căn bản, tín điều và hệ thống thì “sau cùng mối quan tâm hiện tại của chúng ta diễn ra với chuyên ngành chức năng thứ tám, truyền thông. Đó là một mối quan tâm trọng yếu, vì chính tại giai đoạn cuối cùng này, suy tư thần học trổ sinh hoa trái. Không có bảy giai đoạn trước thì sẽ không có kết quả được sinh ra. Nhưng nếu không có giai đoạn cuối cùng thì bảy giai đoạn trước là không có kết quả, vì chúng thiếu hoàn thiện” (1973, 355).

Điều cốt yếu đối với Giáo Hội là phải công bố và truyền thông Đức Kitô bằng lời và việc làm. Toàn bộ hiện hữu và diện mạo của Giáo Hội là thành phần của bổn phận rao giảng Tin Mừng này rồi. Giống như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói với một số Giám Mục Ấn Độ ngày 16 tháng 5 năm 1995: “Không bao giờ có thể nhấn mạnh cho đủ rằng sứ vụ của Giáo Hội thật là siêu việt và hệ tại, trước hết và trên hết, ở việc để cho con người được sẻ chia mầu nhiệm của sự thông ban của Thiên Chúa qua ân sủng.”

Bất cứ sự công bố nào về Đức Kitô sống động hiện nay đều đặt căn bản trên kinh nghiệm đức tin cá nhân cũng như cộng đồng của Giáo Hội và của các thành viên Giáo Hội. Một lần nữa, kinh nghiệm này không đơn thuần là việc chuyển trao thông tin giống như một mặt hàng, nhưng là kinh nghiệm truyền thông đối thoại của từng người và của Giáo Hội như là một cộng đoàn sống động. Theo nghĩa này, công bố Tin Mừng là sẻ chia ý nghĩa và kinh nghiệm về hoạt động cứu độ của Thiên Chúa. Điều này đòi hỏi một linh đạo truyền thông của cá nhân cũng như Giáo Hội nói chung. Trong một trong những tác phẩm đầu tiên của mình, Henri Nouwen đã mô tả những hệ quả của một tinh thần như thế đối với người rao giảng Tin Mừng bằng những diễn tả của đối thoại và sự sẵn lòng. Với đối thoại, ngài muốn nói đến “một cách thế tương quan với những người nam và người nữ để họ có khả năng đáp trả lại điều đã được nói bằng kinh nghiệm cuộc sống của chính họ. Theo cách này, đối thoại không phải là một kỹ thuật mà là một thái độ của người rao giảng, kẻ sẵn lòng bước vào một tương quan mà trong đó những người tham dự có thể thực sự tác động lên nhau” (1971, 34tt). “Xét cho cùng, đối thoại chỉ có thể trở thành hiện thực thông qua một sự sẵn lòng về phía người rao giảng để trở nên sẵn sàng đối với thính giả trong một ý nghĩa rất căn bản… Một người rao giảng không bằng lòng làm cho sự hiểu biết của mình về niềm tin cũng như sự ngờ vực, sự băn khoăn và niềm hy vọng, nỗi sợ hãi và niềm vui của chính mình trở nên có giá trị như một nguồn mạch nhận thức đối với người khác thì không bao giờ có thể hy vọng xóa bỏ được những chướng ngại ngăn chặn Lời Thiên Chúa sinh hoa trái” (1971, 37).

Điều Henri Nouwen nói về việc chăm sóc mục vụ cũng có thể có giá trị cho việc truyền thông đức tin nói chung: việc truyền thông đức tin này không “lo lắng chạy quanh nỗ lực cứu chuộc con người,” nhưng xét cho cùng đó có nghĩa là “trao ban kinh nghiệm sống của chính mình đến cho người đồng loại của mình và như Paul Simon hát: hy sinh chính mình như một cái cầu bắc qua những dòng nước đục” (1971, 38).

Thánh Gioan Thánh Giá đã sử dụng từ “truyền thông” vào thế kỷ 16 để nói về sự đối thoại của linh hồn con người với Thiên Chúa theo cái cách mà một sự hiệp thông và truyền thông huyền nhiệm diễn ra (x. Tillmans 1986). Nhưng vượt xa hơn những lối tiếp cận mang tính cá nhân như thế, Giáo Hội cần phải được nhìn như sự hiện thực hóa và chia sẻ quyền năng cứu chuộc của Thiên Chúa cho con người hôm nay, tức là, như một sacramentum mundi, một bí tích của thời đại chúng ta mà Giáo Hội không thể trở thành nếu không truyền thông trong và với mọi hình thức, cách thức và phương tiện mà Giáo Hội có thể tùy nghi sử dụng. Theo nghĩa này, Giáo Hội học hiện đại cần phải xem Giáo Hội như là sự hiệp thông và truyền thông.

Avery Dulles (1988) phát triển một phân tích các bản văn của Công đồng Vatican II và đưa ra năm mô hình Giáo Hội truyền thông khác nhau, chúng được đặt trên nền tảng nghiên cứu tổng quát hơn trước đây của ông về “Các mô hình Giáo Hội.”

  1. Mô hình thể chế hay phẩm trật “đúng hơn đề cập đến, theo nghĩa hẹp, quyền bính chính thức và tính bắt buộc của giáo huấn chính thức. Nó có khuynh hướng nhìn sự truyền thông, theo nghĩa thần học, như một tiến trình đi xuống khởi đầu từ Thiên Chúa, qua Đức Giáo Hoàng và hàng Giám Mục đến các thành phần khác của Giáo Hội…” (112). Mô hình hình này liên hệ tới “các tương quan bên trong Giáo Hội giữa những người quản lý Lời Chúa và những người mà họ chăm sóc mục vụ…” Nó “tạo nên một sự phân biệt sác nét giữa phẩm trật thầy dạy có thẩm quyền (ecclesia docens) và phần còn lại trong số các tín hữu như là những người thụ huấn (ecclesia discens)”. “Nội dung của mô hình này là giáo huấn có thẩm quyền của Giáo Hội” (114 tt). Những diễn tả của mô hình này, bên cạnh những diễn tả khác, là các văn kiện chính thức, các thư mục vụ và các thông cáo. Nó phần lớn tham chiếu đến những trình bày trong các văn bản được in ấn.

  2. Mô hình có tính sứ giả hay loan báo Tin Mừng có liên hệ tới thần học kinh thánh Tin Lành và thần học của Karl Barth về Ngôi Lời, nhưng nó tìm được những diễn tả của mình đặc biệt trong tài liệu của Công đồng Vatican II về Mặc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum và nhiều phần khác của Sắc lệnh về Hoạt động truyền giáo của Giáo Hội Ad Gentes: theo lệnh truyền của Đức Giêsu, Giáo Hội không ngừng tiếp tục sai các sứ giả công bố Tin Mừng…” (114). Ở đây, thừa tác vụ truyền thông của Giáo Hội được nhìn trong tương quan với những người ở bên ngoài, trong khi đó mô hình thứ nhất liên hệ nhiều hơn tới sự truyền thông nội tại bên trong Giáo Hội. Vì Giáo Hội, bởi chính bản chất của mình, là truyền giáo (AG 2), tất cả các tín hữu đã được rửa tội đều là những người mang sứ điệp Tin Mừng. Mô hình này dựa nhiều hơn vào những chiều kích văn hóa truyền miệng và lời đáp trả được mong đợi là sự hoán cải của những người nghe. Trong mô hình phẩm trật, lời đáp trả là “một sự tùng phục của lý trí trước quyền bính đòi hỏi phải được tôn trọng; lời đáp trả cho lời rao giảng loan báo Tin Mừng lại là một sự tham dự có tính hiện sinh của toàn thể con người vào tin vui cứu độ” (116).

  3. Mô hình bí tích cho thấy rằng “sự truyền thông tôn giáo diễn ra không chỉ nhờ những ngôn từ mà đồng thời còn nhờ những con người và sự kiện (DV 2). Chính Đức Kitô được xem như biểu tượng mặc khải cuối cùng, hình ảnh sống động làm cho Thiên Chúa trở nên hữu hình cách nào đó. Đức Kitô truyền thông không chỉ qua điều Người nói mà thậm chí còn nhiều hơn qua điều Người là và làm.” Ở đây, Giáo Hội được mô tả như một dấu chỉ hữu hiệu hay bí tích mà qua đó Đức Kitô được trở nên hiện diện và hoạt động. Tại đây, chiều kích truyền thông của phụng vụ được xem xét và “mô hình bí tích của truyền thông” chính là nơi mà “các dấu chỉ thánh thiêng tạo nên hiệu quả cứu độ của chúng, nhờ quyền năng của Đức Kitô” (117).

  4. Mô hình hiệp thông hay cộng đoàn của Giáo Hội truyền thông là koinonia, “việc thông phần sự sống, đức ái và chân lý được làm cho sống động bởi Thánh Thần” (LG 9). Một diễn tả của lối tiếp cận này nằm trong chương thứ hai của Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium (LG 9 – 17) dưới tiêu đề “Dân Thiên Chúa.” Mô hình hiệp thông này “ủng hộ chứng tá và sự đối thoại chung” cùng với các Kitô hữu khác. Nó hẳn là phải được mở rộng ngay cả ra bên ngoài Kitô giáo (Xx. LG 16; Nostra Aetate), điều này đưa tới mô hình thứ năm.

  5. Mô hình đối thoại-trần thế chủ yếu dựa vào Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay Gaudium et Spes của Công đồng Vatican II. Ở đây, thế giới không-Kitô giáo không không được nhìn cách đơn giản như “chất liệu thô để cho Giáo Hội làm biến đổi thành mục đích của chính nó, cũng không chỉ đơn thuần như là một đối tượng của lòng nhiệt thành truyền giáo, nhưng như là một địa hạt trong đó ý định sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa hoạt động một cách nhiệm mầu” (118). Tại đây, sự đối thoại của Giáo Hội với các nền văn hóa và thế giới các tôn giáo tìm thấy không gian của nó; cũng vậy đối với sự đối thoại với một thế giới truyền thông đang lớn mạnh mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II ghi trong Thông diệp về Sứ vụ Redemptoris Missio (1990) như là “Công Hội Viện (Areopagus) đầu tiên của thời hiện đại” (37). Trong mô hình này, Giáo Hội cần phải giải thích được các dấu chỉ của thời đại (x. GS 11, 14) và điều này được coi là một thách đố đặc biệt đối với người giáo dân (x. GS 43, 62; cũng như trong Tông huấn Christifideles Laici 1988). Theo Dulles, “thần học đối thoại-trần thế này…có những tác động trở lại trên sự đối thoại diễn ra bên trong Giáo Hội” (120), nhưng nó cũng quan niệm rằng mặc khải “không bắt đầu với Thánh Kinh và Thánh truyền, hay thậm chí với Đức Giêsu Kitô, nhưng với Ngôi Lời, Đấng mà trong Người mọi sự đã được tạo thành. Ân sủng được cho là hoạt động trong toàn thể lịch sử nhân loại. Giáo Hội, dù có đặc ân nhận biết được sự tự biểu lộ cao cả nhất của Thiên Chúa trong Chúa Con nhập thể, có thể không ngừng đào sâu sự hiểu biết của mình về Thiên Chúa nhờ đối thoại với các truyền thống tôn giáo khác và nhờ việc giải thích các dấu chỉ của thời đại” (121). Hướng dẫn Mục vụ về các phương tiện truyền thông xã hội Communio et Progressio (1971) giải thích rõ ràng về những hàm ý của mô hình này trong việc xem thế giới hiện nay như là “một hội nghị bàn tròn rộng lớn,” nơi mà “một sự hiệp thông toàn thế giới đang được hình thành nhờ một sự trao đổi thông tin và hợp tác” (19, 73; x. 97, 98).

Vai trò công bố/loan báo Tin Mừng của Giáo Hội được kinh nghiệm một cách đặc biệt trong các lĩnh vực thần học như giảng thuyết, tông đồ thánh kinh, giáo lý, phụng vụ và linh đạo; những lĩnh vực này vốn là thành phần của “truyền thông mục vụ” vì chúng quan tâm tới những biểu thức cụ thể của mặc khải và đức tin dành cho một cộng đoàn Kitô hữu nhất định.

Vì vậy, có nhu cầu cần phải đề xuất những nghiên cứu và sự ý thức trong lĩnh vực truyền thông mục vụ mới xuất hiện; những nghiên cứu này suy tư về chiều kích truyền thông của Giáo Hội trong đời sống cũng như hoạt động mục vụ và loan báo Tin Mừng của mình. Truyền thông mục vụ đặt nền tảng trên một hiểu biết mang tính thần học và thiêng liêng vững chắc về một Thiên Chúa truyền thông đang sống trong và cùng với cộng đoàn đức tin được gọi là Giáo Hội. Giáo Hội được sai đi vào trong thế giới và đến với con người thuộc bất cứ thời đại, không gian và chủng tộc nào.

THƯ MỤC

Baragli, Enrico:

1974                    Dieci Anni Decreto sui Mass. In: Lo Spettacolo, Roma XXIV, Aprile-Guingno. Pp. 3-72 (includes English and France translations)

Braga, Giorgio:

1974                    La Communicazione Soziale. 2nd Edition. Torino

Dulles, Avery:

1972                    The Church is Communication. Rome (Multimedia)

1988                    The Church and Communications: Vatican II and beyond. In: The Reshaping Catholicism. Current Challenges in the Theology of the Church. San Francisco (Harper and Row)

Eilers, Franz-Josef:

2009a                  Communicating in Community. 4th Edition. Manila (Logos)

2009b                  Communicating in Ministry and Mission. 3rd Edition. Manila (Logos)

2012                    Social Communication and Theology – Communication Theology. In: Asian Horizons. Bangalore. Vol 6, 794-812

2014a                   Communicating Church: Social Communication Documents 1936 – 2014. 2nd Edition. Manila (Logos)

2014b                  Church and Social Communication Documents 1936 – 2014. 4th Edition. Manila (Logos)

Greshake, Gisbert:

2002                    Der Ursprung dẻ Kommunikationsidee. In: Communicatio Socialis. Mainz. Vol 34. Pp. 5 – 26

Hearing, Bernhard:

1979                    Free and faithful in Christ. Moral Theology for Pries ts and Laity, Vol. II: The Truth Will Set You Free. London (St, Pauls)

Kiefer, Klaus (Ed.):

2007                    Social Communication. New York (Psychology Press)

Kirchbaum, Engelbert (Ed.):

1994 (1970)          Lexikon der Christlichen Ikonographie. Band II. Rom/Freiburg (Herder)

Lonergan, Bernard:

1971                    Method in Theology. New York (Herder)

Martini, Carlo Maria:

1990                    Effata ‘Apriti’. Lettera per il Programma Pastorale ‘Comminicare’. Milano (Centro Ambrosiano). English: Communication Christ to the World. Philippine Edition: Manila (Claretians 1996)

Nouwen, Henri:

1971                    Creative Ministry. New York

O’Collins, Gerard:

1981                    Fundamental Theology. London (Darton)

Rahner, Karl:

1978                    Foundations of Christian Faith. An Introduction to the Idea Christianity. New York (Herder)

Standage, Tom:

2013                    Writing in the Wall, Social Media. The firsr 2000 years. New York (Bloomsbury)

Tillmans, W. G:

1986                   Theologie und Kommunikation. In: Communicatio Socialis. Mainz. Vol. 19, pp 347 – 357


👉 (đọc tiếp chương tiếp theo tại đây)

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.