BIỂU TƯỢNG: KHÁI NIỆM VÀ HIỂU BIẾT
BIỂU TƯỢNG: KHÁI NIỆM VÀ HIỂU BIẾT
Tác giả: Linh mục Tiến sĩ Charles Ndhlovu (SYMBOLS WE UNDERSTAND BY)
Chuyển ngữ và bổ sung tiêu đề: Tu sĩ Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM
Bài viết này, dưới góc nhìn triết học-Thomistic, khám phá khái niệm biểu tượng – một yếu tố quan trọng trong truyền thông. Khi bàn về biểu tượng, chúng ta có thể nhận thấy hai quan điểm chính đã tồn tại từ thời Hy Lạp cổ đại cho đến triết học Kinh viện.
1. Hai Quan Điểm Về Biểu Tượng
Quan điểm thứ nhất, tập trung vào hình ảnh hữu hình hay biểu hiện bên ngoài, được thể hiện qua hai khái niệm eidos và morphe trong triết học Hy Lạp. Eidos và morphe ám chỉ sự xuất hiện của một đối tượng, ví dụ như hình dáng đẹp của một chiếc bình.
Quan điểm thứ hai, được nhấn mạnh trong triết học Kinh viện, lại tập trung vào bản chất bên trong của sự vật, coi đó là nguồn gốc của hình ảnh. Theo đó, bản chất tự cấu thành và tự hoàn thiện bằng cách "chiếu hình ảnh hữu hình của nó ra bên ngoài như là biểu tượng của nó, sự xuất hiện của nó, cho phép nó hiện hữu ở đó, đưa nó đến sự tồn tại trong thế giới: và khi làm như vậy, nó vẫn giữ được 'sự sở hữu chính nó trong cái khác'". [1]
2. Mối Liên Hệ Giữa Thần Học Biểu Tượng và Bản Thể Học Thomistic
Có một mối liên hệ mật thiết giữa thần học về biểu tượng và bản thể học Thomistic. Ở đây, chúng ta có thể thấy rõ điều này qua nguyên tắc causa formalis (nguyên nhân hình thức), trong đó "hình thức tự nó thể hiện ra bằng cách truyền đạt chính nó cho nguyên nhân vật chất... Nó không tác động lên nó sau đó và 'từ bên ngoài', bằng cách tạo ra trong nó một cái gì đó khác với chính nó và xa lạ với bản chất của nó". [2] Như vậy, theo Aquinas, có sự khác biệt giữa hình thức và quan hệ nhân quả thực tế của nó.
Nguyên nhân hình thức ban cho hình thức, hay ‘formatio actualis’ của tiềm năng bởi hình thức (thực thể), ‘mang đến’ cái được hình thành, vật thể thực tế (ở đây chúng ta không quan tâm đến hình thức mà quá trình này diễn ra, một khi chúng ta phân biệt giữa khía cạnh bản thể và bình diện định lượng hình thức trong thời gian và không gian). Sự biểu hiện bên ngoài này của hình thức hay nguyên nhân thực thể, theo học thuyết cơ bản của chủ nghĩa kinh viện vừa được đề cập, quả thực khác với hình thức tự thân. Nhưng nó vẫn biểu hiện hình thức cơ bản này trong chính sự khác biệt này: nó là một biểu tượng được tạo ra bởi chính cái được biểu tượng như là sự tự hiện thực hóa của chính nó. Trong ‘biểu tượng’ khác biệt này, cái được biểu tượng hiện diện, chính hình thức (tạo ra sự khác biệt ‘bản thể học-biểu tượng’ giữa thực tại biểu tượng và biểu diễn biểu tượng), vì nó mang đến ‘cái khác’ được hình thành, trong chừng mực nó truyền đạt cho nó thực tại mà chính hình thức đó có.[3]
3. Hình thức Tiềm Ẩn và Hình Thức Thực Thể
Trong khái niệm về quan hệ nhân quả hình thức, có ý tưởng cho rằng hình thức vừa tiềm ẩn trong vật chất, vừa tồn tại như một hình thức thực thể là nguyên nhân tạo nên đối tượng vật chất. Trong trường hợp này, đối tượng vật chất trở thành sự biểu hiện bên ngoài của hình thức thực thể. Sự biểu hiện bên ngoài này là một biểu tượng được tạo ra bởi chính cái mà nó biểu tượng hóa.
Thêm vào đó, cái được biểu tượng hóa bởi sự biểu hiện bên ngoài của hình thức, tự hiện thực hóa chính nó thông qua biểu tượng được tạo ra này. Theo cách này, biểu tượng được tạo ra, tức là sự biểu hiện bên ngoài của hình thức, là một thực tại biểu tượng có khả năng biểu diễn biểu tượng.[4]
4. Nguyên Lý Triết Học về Sự Kết Quả
Chúng ta có thể thấy sự tương đồng với nguyên lý triết học về sự kết quả. Theo quan điểm này, một hữu thể hữu hạn không phải là một thực tại hoàn chỉnh tự thân mà dựa vào Thiên Chúa. Các hữu thể hữu hạn có sự tự hiện thực hóa nội tại về bản chất của chúng, do đó chúng không chỉ là những sự kiện thụ động, nhất thời hay nội tại. Quá trình tự hiện thực hóa nội tại này phụ thuộc vào hành động sáng tạo của Thiên Chúa, diễn ra trước các hành vi ngẫu nhiên của các hữu thể hữu hạn.[5]
Trong các hữu thể hữu hạn, có sự kết quả hay tràn đầy của các năng lực từ bản chất đến hữu thể hữu hạn và thông qua quá trình này, bản chất tự xây dựng chính nó thành một tổng thể. Ngay cả khi các năng lực là ngẫu nhiên, chúng thuộc về bản chất của hữu thể hữu hạn và thông qua sự tràn đầy và kết quả của chúng; hữu thể hữu hạn tự nhận ra chính nó, đạt được các khả năng của nó và tìm thấy chính nó. Ngoài ra, thông qua sự tràn đầy của các năng lực, hữu thể hữu hạn trở nên tinh thần và điều này liên quan đến thực tế là hữu thể hữu hạn phóng chiếu từ chính nó sự khác biệt của các năng lực của nó, vốn khác biệt với bản thể của nó. Chúng ta cần đề cập ở đây rằng sự kết quả không chỉ áp dụng cho các năng lực mà nó có thể áp dụng cho một quyền năng, hoặc thậm chí cho một ngẫu nhiên. [6]
5. Đại Lượng Xác Định và Tính Cụ Thể Không Gian-Thời Gian
Điều quan trọng nữa là nhận ra rằng thông qua quá trình kết quả, có một đại lượng xác định được hình thành và đại lượng xác định này có một tính cụ thể, không gian-thời gian nhất định. Ngoài ra, đại lượng này cũng có thể được mô tả như một hình dạng không gian-thời gian với các xác định định tính riêng của nó. Hơn nữa, đại lượng này khác biệt với bản thể, được cấu thành từ forma substantialis và materia prima nhưng nó cũng khác biệt với thực tại là kết quả của sự kết hợp này.
Chúng ta cũng có thể đồng ý với Aquinas rằng đại lượng xác định này nên được coi là loài, hình thức bên ngoài, khía cạnh và hình dạng và đó là lý do tại sao chúng ta có thể nói rằng “bản thể cơ bản tự cung cấp cho chính nó, để tự hoàn thiện chính nó, để 'thể hiện' chính nó và do đó tự biểu hiện. 'Loài' của vật chất chắc chắn là biểu tượng - được tạo ra bởi bản chất, được lưu giữ với nguyên nhân hiệu quả trong một thể thống nhất được phân biệt, tạo thành truyền thông' cần thiết của sự tự hiện thực hóa - trong đó vật chất sở hữu chính nó và thể hiện chính nó để xem, trong các hình thức khác nhau phù hợp với sự tồn tại của nó.” [7]
6. Linh Hồn Là Hình Thức của Cơ Thể
Cũng cần đề cập ở đây rằng một học thuyết khác trong triết học kinh viện xác nhận khái niệm biểu tượng khẳng định rằng linh hồn là hình thức của cơ thể. Nếu linh hồn là hình thức của cơ thể, thì cơ thể là biểu hiện của “thực tại tinh thần cơ bản của con người.” [8]
7. Kết Luận
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra hai kết luận quan trọng:
Thứ nhất, một biểu tượng được hình thành cho sự hiện thực hóa của hữu thể được biểu tượng hóa. Do đó, một biểu tượng về bản chất thuộc về cái được biểu tượng hóa.
Thứ hai, “biểu tượng nói đúng ra (thực tại biểu tượng) là sự tự hiện thực hóa của một hữu thể trong cái khác, cái mà cấu thành bản chất của nó.” [9]
Do đó, chúng ta có thể nói rằng bản chất nói chung tự hiện thực hóa bằng cách thể hiện chính nó thành một hữu thể khác, cái mà trở thành biểu tượng của hữu thể được đề cập. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể chỉ ra rằng khái niệm hữu thể là tương tự bởi vì nó thể hiện nhiều loại tự hiện thực hóa của các hữu thể khác nhau.
Như vậy, khái niệm hữu thể và khái niệm biểu tượng chỉ có thể được xử lý trong các thuật ngữ chung và bao quát bao gồm cả hai; hữu thể (biểu tượng hóa hữu thể tự thân) và hữu thể tự thân (là hình ảnh được tiết lộ về 'sự thật' nguyên thủy nhất của 'hữu thể'). Bây giờ, nếu có sự khác biệt tồn tại giữa các hữu thể và hữu thể tự thân, thì chúng ta có thể nói rằng khái niệm và thực tại của biểu tượng nên linh hoạt. [10]
Tất cả điều này rất quan trọng bởi vì khái niệm biểu tượng tìm thấy sự thể hiện và biểu hiện trong truyền thông và Thần học Truyền Thông nói chung - một truyền thông diễn ra một cách tượng trưng!
GHI CHÚ:
[1] Karl RAHNER, The theology of the symbol, trong Karl RAHNER, “Theological investigations, Volume four, More recent writings,” in Karl RAHNER, London, Darton, Longman & Todd, 1974, 231.
[2] Sđd.
[3] RAHNER, The theology of the symbol, 232.
[4] x. RAHNER, The theology of the symbol, 232.
[5] x. RAHNER, The theology of the symbol, 233.
[6] x. Ibid.
[7] RAHNER, The theology of the symbol, 234.
[8] RAHNER, The theology of the symbol, 234.
[9] Sđd.
[10] x. RAHNER, The theology of the symbol, 235.