Những chiều kích của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong mầu nhiệm Nhập Thể
TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI DƯỚI GÓC NHÌN THẦN HỌC: THẦN HỌC TRUYỀN THÔNG
Nguyên tác: Ta, Anh Vu, and Franz-Josef Eilers, SVD. Social Communication in Theological Perspective: Communication Theology. Communicatio Socialis Prints, no. 1.
Người dịch: Vincent de Paul Nguyễn Đức Nam, O.Cist. (dvxitochauthuy.com)
Hiệu đính: Lm. Bernard Trần Nghiêm, O.Cist
TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI DƯỚI CÁI NHÌN THẦN HỌC(Franz-Josef Eilers, svd) 👉 (đọc bài viết tại đây)
THẦN HỌC TRUYỀN THÔNG (Ta Anh Vu)
1. Sự phát triển một khái niệm thần học
2. Nguồn gốc của ý tưởng về thần học truyền thông
3. Những chiều kích của việc Thiên Chúa thông ban chính mình trong Mặc Khải
4. Những chiều kích của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong mầu nhiệm Nhập Thể 👉 (đọc bài viết tại đây)
4.1. Những thời điểm căn bản của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong Tân Ước
4.2. Những đặc tính của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình nơi Đức Giêsu Kitô
4.3 Thập giá như cử chỉ yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người
5. Vai trò của Chúa Thánh Thần
6. Giáo Hội như là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi: Một thực tại mang tính truyền thông 👉 (đọc bài viết tại đây)
7. Suy tư kết luận
4. Những chiều kích của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong mầu nhiệm Nhập Thể.
Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình đã đạt tới cao điểm trong sự Nhập Thể của Con Người, Ngôi Lời trở nên xác phàm (Ga 1, 14). Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình giờ đây là một sự truyền thông và hiệp thông rất cá vị. Đức Giêsu mặc khải, trong và qua hữu thể của Người, Hình Ảnh trung thực của Thiên Chúa mà cùng lúc tỏa chiếu ánh sáng trên hình ảnh chân thực của con người. Trong sự Nhập Thể của Chúa Con, Thiên Chúa tự mình đi vào thế giới con người. Lời Thiên Chúa, lời được nói qua các tổ phụ và ngôn sứ, trở nên hữu hình và khả giác nơi Đức Giêsu Kitô. Thư gửi tín hữu Do Thái tóm tắt tiến trình truyền thông thần linh này như sau:
Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật (Dt 1, 1 – 3).
Trong Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, Chúa Con hiện diện trong thế giới con người. Người nói, rao giảng, dạy dỗ, biểu lộ và tiếp xúc với con người, cách đặc biệt bằng quyền năng chữa lành của Người để chúng ta có thể hiểu, đồng hóa và nhận biết Thiên Chúa. Người nói, rao giảng, dạy dỗ, và chứng thực cho điều mà Người đã thấy và nghe nơi cung lòng Chúa Cha. So với mạc khải trong Cựu Ước, Lời Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô không chỉ là một nhân tố vững bền trong lịch sử nhân loại, mà Lời ấy đã trở nên cho chúng ta một “trung gian truyền thông” qua đó Thiên Chúa hoàn toàn tỏ lộ chính mình cho con người.[120] Đức Kitô là chóp đỉnh và là viên mãn của mặc khải và sự truyền thông của Thiên Chúa. Tân Ước đưa ra nhiều tường thuật và câu chuyện như là những chứng từ về Biến Cố Đức Giêsu: Ngôi Lời đã thành xác phàm. Như một toàn thể, đó là một minh chứng về Thiên Chúa hằng sống, Đấng tự mình dự phần vào cuộc sống con người và nhờ đó cho phép con người tham dự vào đời sống thần linh của Người.
Những cảnh huống của cuộc sống Đức Giêsu Kitô như thế phải được xem như là truyền thông: cách thế đơn sơ trong việc Người được hạ sinh, những năm ẩn dật của Người tại Nazareth như sự chuẩn bị cho sứ vụ công khai, vị thế xã hội của Người như là con bác thợ mộc, 40 ngày trong sa mạc, cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá của Người, tất cả những điều này cho thấy cách thức mà Đức Giêsu Kitô đã truyền thông.[121] Ở đây là một số khoảnh khắc chủ yếu của việc Thiên Chúa thông ban chính mình trong Tân Ước thấm nhập toàn bộ cuộc sống con người.
4.1. Những thời điểm căn bản của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong Tân Ước
1/ Phép rửa của Đức Giêsu – một chiều kích mới của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình
Từ thời ngôn sứ Malachi, Thiên Chúa dường như giữ thinh lặng. Nhưng giờ đây, trong một biến cố đặc biệt này, Thiên Chúa một lần nữa phá vỡ sự thinh lặng của Người và nói với con người. Phép rửa của Đức Giêsu là một hành động mang tính truyền thông Ba Ngôi của Thiên Chúa cho con người, hành động này mang đặc tính của một cuộc xuất hành mới: (1) Chúa Cha, một cách mới mẻ và khác thường, ban LỜI của Người; (2) Chúa Thánh Thần công khai vén mở Hình Ảnh trung thực của Thiên Chúa cho những ai hiện diện bằng hành động của phép rửa. Đức Giêsu ở đây được mặc khải như người Tôi Trung đích thực của Thiên Chúa; (3) Chúa Con, cùng với mọi người xếp hàng để chịu phép rửa của Gioan và bằng lòng chấp nhận phép rửa tỏ lòng sám hối, bày tỏ Hình Ảnh chân thực của Con Thiên Chúa cũng như hình ảnh đích thực của Israel, “con đầu lòng” (x. Xh 4, 22). Trong việc chịu phép rửa của Đức Giêsu, Thiên Chúa biểu lộ Hình Ảnh của chính mình trong Chúa Con, nhờ Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu làm hiện lên trong con người của Người một Người Tôi Trung đích thực của Thiên Chúa, Đấng sẽ hoàn thành sứ mạng Thiên Chúa trao phó; trong cách nhìn này, Người chính là Đấng truyền thông của Thiên Chúa. Trong tư cách là Con Thiên Chúa, là Đấng – với thái độ kính yêu – vâng phục và tôn vinh Cha, Người mang lấy vị thế của dân Israel đích thực, những người cần phải lắng nghe Thiên Chúa; bằng cách này, Người hiện thân tình Con thảo đích thực mà qua đó Người truyền thông với Chúa Cha trong tình yêu. Qua những lời giảng dạy, qua những việc làm kỳ diệu của mình, nhất là qua cái chết và sự phục sinh, Người chính là sự hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa dành cho Israel trong vai trò Con vua Đavit, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa sẽ sai đến. Với Người, thời của lòng thương xót và sự tha thứ đã đến.[122] Tất cả những điều này tiêu biểu cho Đức Giêsu như Đấng là sự truyền thông “mới” của Thiên Chúa cho Israel. Đồng thời, chính Người cũng là sứ điệp Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại: Giêsu Kitô là Đấng thông truyền và cũng chính là sự truyền thông. Tất cả những khía cạnh này xác định và thấm nhập toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu. Chúng trở nên khả giác và hữu hình nhờ những những hoạt động của Người.
2/ Đức Giêsu Kitô kêu gọi dân chúng thời Người trong tư cách là Đấng loan báo và khai mở Nước Thiên Chúa. Người làm việc này qua lời giảng dạy, các hành vi, và nhất là qua con người của Người.
Đức Giêsu truyền thông cho con người trong tư cách là thầy dạy sự khôn ngoan tuyệt đỉnh. Trong các mối phúc, Đức Giêsu công bố Nước Thiên Chúa và trình bày điểm cốt yếu trong cương lĩnh của Nước ấy để những người lắng nghe Người có thể ghi nhớ, suy ngẫm và sống nhờ đó (Mt 5, 1 – 12; Lc 6, 20 – 26). Người sử dụng khuynh hướng tâm lý của thính giả, các giá trị văn hóa của họ, những điều được đặt nền tảng trên nhận thức xã hội-văn hóa và tôn giáo của Israel, để giải thích và giới thiệu cho họ ý nghĩa và bản chất của Nước Thiên Chúa. Người đến không phải để hủy bỏ những giá trị đó, nhưng đưa chúng đến chỗ hoàn thành (Mt 5, 17). Điều gọi là những phản đề trong Tin Mừng Matthêu chứng tỏ thẩm quyền và uy thế của Đức Giêsu như là một thầy dạy: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng … Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết …” (Mt 5, 27 – 48). Người thực hiện các hoạt động giảng dạy của mình bất cứ dịp nào và tại bất cứ nơi đâu. “Đức Giêsu chia sẻ sứ điệp của Người về Nước Trời và kêu mời hoán cải bất cứ khi nào Người ra đi như là một nhà giảng thuyết lưu động: bởi đó, Người được gặp thấy tại các hội đường và đền thờ cũng như những nơi chợ búa, trên các ngã đường, trong các tư gia, cả ở bên bờ hồ và trên các ngọn núi.[123]
Trong khi Đức Giêsu dùng những ngôn từ để giải thích tính xác đáng và nội dung của sứ điệp Nước Trời, thì các dụ ngôn và các câu chuyện của Người về cuộc sống thường ngày “họa lại” thực tại Nước Thiên Chúa theo nhận thức của những kẻ nghe Người. Có một phạm vi rộng lớn trong các kinh nghiệm và hoạt động của con người được Đức Giêsu sử dụng để phục vụ cho việc giảng dạy của Người: đứa con hoang đàng, khách bộ hành bị đánh đập và bị cướp trên đoạn đường vắng; kho tàng ẩn giấu được khám phá, người nông dân gieo giống, những nhân công được thuê mướn, người phụ nữ chuẩn bị lên men bột mì, v.v…[124]
Ngoài ra, các phép lạ được Đức Giêsu thực hiện thì thuộc về cùng một cách truyền thông như những lời nói. Chúng là những dấu chỉ mà Đức Giêsu dùng để chứng thực những lời nói của Người, và để biểu lộ Nước Thiên Chúa. Trong suy tư thần học của mình về các phép lạ của Đức Giêsu, René Latourelle nhấn mạnh tới bốn chức năng của phép lạ: (1) truyền thông, (2) mặc khải, (3) chứng thực, (4) giải thoát và nâng cao. Trước hết, ông nhấn mạnh đến chức năng có tính truyền thông của các phép lạ của Đức Giêsu. Theo ông, “chúng không chỉ đơn giản là những dấu hiệu hay vết tích của một sự hiện diện và một hoạt động, mà còn thể hiện một ý định tìm kiếm sự truyền thông liên vị… Như vậy, trước khi có bất cứ sự biệt hóa xa hơn nào, các phép lạ có chức năng truyền thông. Chúng cho thấy Thiên Chúa có ý định muốn đi vào đối thoại bằng hữu với con người.”[125] Đó là đường lối nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng đến cùng với một hành động cứu độ bất tương xứng làm cho con người muốn lắng nghe lời Người. Các phép lạ của Đức Giêsu là một phương thức để Thiên Chúa truyền thông vì hiệp thông, một sự hiệp thông vốn là trung tâm sứ vụ của Người. Có nhiều câu chuyện như chuyện về người thanh niên giàu có (Mc 5, 20), về người phong cùi (Mc 1, 45), về người mù tại Jericho (Mc 18, 52; Lc 18, 43), về một người điếc (Mc 7, 31 – 37) v.v… Những người này bị tách biệt và cô lập. Vì bệnh tật của mình, họ đã đánh mất khả năng và khả thể truyền thông của mình. Nhờ việc chữa lành bệnh tật cho họ, Đức Giêsu tái lập khả năng truyền thông của họ và làm cho họ được quay trở lại với xã hội con người và trong sự hiệp thông với Chúa Cha.[126]
Để tóm kết cách thức truyền thông của Đức Giêsu trong việc công bố Nước Thiên Chúa, người ta có thể nói như sau:
Những phương tiện được Đức Giêsu sử dụng cho việc truyền thông bao trùm toàn bộ phạm vi truyền thông bằng lời và không lời trong thời đại và nền văn hóa của Người. Người truyền thông không lời qua những hành động như các phép lạ, việc chữa lành, đụng chạm, viết trên cát, đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, v.v… Như thế, những hành động của Người có thể là truyền thông cách trực tiếp hay bằng biểu tượng, thể hiện một ý nghĩa sâu xa hơn. Người truyền thông bằng lời qua việc rao giảng, dạy dỗ, đối thoại, chia sẻ nhóm như với các môn đệ của Người và tiếp xúc cá nhân như với ông Nicodemus. Việc rao giảng của Người sử dụng không những các dụ ngôn, những lối ẩn dụ, các châm ngôn, chuyện kể và những tham chiếu đến các kinh nghiệm sống hằng ngày mà còn cả kiểu nói giản dị.[127] (Eilers, 2009b, 55)
3/ Bữa Tiệc Ly là chóp đỉnh sự truyền thông của Thiên Chúa, điều đã được mở đầu bởi phép rửa của Đức Giêsu và đã được thực hiện trong sứ vụ của Người. Trong bối cảnh thân mật này, Thiên Chúa, trong và nhờ Đức Giêsu Kitô, trao ban và mặc khải chính mình như một Thiên Chúa hằng sống mà hiện hữu của Người là một hiện hữu cho người khác.
Trong Bữa Tối Sau Cùng, Đức Giêsu dùng nghi thức đặc biệt của dân Israel như một cách thế để truyền thông tình yêu Thiên Chúa trong một chiều kích sâu xa hơn và đầy mới mẻ. Người lấy tư cách vị gia trưởng trong Israel, người nhắc lại cho con cháu họ về sự giải thoát phi thường đã cứu Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập; trong Bữa Tối ấy, Đức Giêsu giới thiệu cho các môn đệ một chiều kích mới của ơn cứu độ của Thiên Chúa. Quan trọng hơn, trong sự xúc động sâu lắng và khoảnh khắc tuyệt diệu này, Đức Giêsu trao ban chính mình như Con Chiên cứu chuộc và giải thoát nhân loại (Mt 26, 26tt; Mc 14, 22tt; Lc 22, 19tt). Tại điểm nhìn này, Người hành động như một người bạn sẻ chia đời sống thân mật với bạn hữu mình đến mức trao ban chính mình vì sự sống của bạn hữu (Ga 15, 13).
4/ Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh, Thiên Chúa nói “tiếng Có” của Người như một lời đáp trả cho “tiếng Không” của con người, kẻ từ chối lời Người mời gọi chia sẻ đời sống chung và
truyền thông.
Tất cả các giáo huấn, hoạt động và toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu nhắm tới sự hiệp thông trọn vẹn giữa Thiên Chúa và con người. Bản chúc thư của Người cho các môn đệ mặc khải ý muốn thần linh này là “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta, như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17, 21). Qua việc Người công bố Nước Thiên Chúa, qua những dấu lạ và kỳ công chữa lành của mình, Đức Giêsu thông truyền một chuyển động “từ Thiên Chúa đến con người”; đồng thời có một chuyển động hỗ tương trong các hoạt động của Người “từ con người hướng về Thiên Chúa.” Đức Giêsu trình bày cho những kẻ nghe Người và cố gắng đưa họ đến kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa để họ, như một lời đáp trả, có thể truyền thông và bước vào hiệp thông với Thiên Chúa. Người không chỉ giới thiệu cho họ con đường này, mà trong một hành động mang tính truyền thông, Người còn tự mình đi trên con đường ấy. Hơn nữa, Người lôi kéo con người vào trong chuyển động này.
Theo Greshake, chuyển động “từ Thiên Chúa đến con người” và “từ con người hướng về Thiên Chúa” có thể được nhìn thấy một cách rõ ràng nơi biến cố Thập Giá. Thập Giá, từ cái nhìn của Thiên Chúa, là dấu chứng quyết liệt nhất mà Người không ngừng đề nghị để truyền thông và hiệp thông ngay cả khi thế gian từ chối nó. Thập Giá là lời “tiếng Có” tự hủy của Thiên Chúa đối lại “tiếng Không” của con người. Trên thực tế, “tiếng Có” của Thiên Chúa được nói vào trong vực thẳm phi lý giữa Thiên Chúa và thế gian, cái vực thẳm được tạo ra bởi một “tiếng Không” của con người đối với tình yêu và sự sống thần linh. Đồng thời, Thập Giá được đặc trưng bởi một chuyển động “từ con người hướng về Thiên Chúa”: đó là một hy lễ mà Đức Kitô, trong tư cách “con người” – đại diện cho nhân loại – dâng lên Thiên Chúa Cha.[128]
Tất cả những khoảnh khắc truyền thông này của Thiên Chúa hướng tới toàn thể cuộc sống con người: từ khởi đầu cho đến kết thúc. Nói cách khác, tất cả những khía cạnh của đời sống con người được bao bọc và thấm nhập bởi sự hiện diện của Thiên Chúa, sự hiện diện được tỏ bày nơi Đức Giêsu Kitô: từ khởi đầu (phép rửa) cho đến kết thúc (đóng đinh), nhưng vượt thoát nơi sự sống mới trong Thánh Thần (phục sinh) như một hiện hữu truyền thông mới, một sự hiện diện trong hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi.
4.2. Những đặc tính của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình nơi Đức Giêsu Kitô
Chiều kích cốt yếu nhất của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong Tân Ước chính là sự kiện Lời Hằng Hữu của Thiên Chúa đã được nói bởi chính Thiên Chúa – Chúa Con. Bằng cách này, Thiên Chúa hoàn toàn thông ban hiện hữu riêng tư nhất của Người cho nhân loại. Trong Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa nói trực tiếp (Ga 1, 1 – 2, 18). Lời Thiên Chúa, trước kia đã được phán truyền, được giải thích và loan báo bởi các ngôn sứ, nay đã trở nên “xác phàm” nơi một con người. Con Thiên Chúa thông ban lời Cha một cách cụ thể qua các giáo huấn, các hoạt động, cuộc sống và cái chết của Người. Sự thông truyền của Đức Giêsu Kitô đi sau lời các ngôn sứ và thầy dạy Israel, nhưng qua hoạt động thông truyền ấy, quyền năng của Thiên Chúa Cha và sức mạnh của Chúa Thánh Thần được biểu lộ cách trọn vẹn trong các lời nói và việc làm của Người (x. Mc 1, 10, 11; Mt 12, 28; Lc 4, 18 – 21).
Vì Đức Giêsu Kitô sống trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa qua sự tự-truyền thông hỗ tương (truyền thông Ba Ngôi), nên Người chia sẻ trọn vẹn tình yêu Thiên Chúa cho những người mà Người gặp gỡ. Như thế, Người làm cho bản thân nên một với những người khác. Trong cách nhìn này, nơi sự truyền thông của Đức Giêsu có một số chiều kích mang tính truyền thông:[129]
Những người tìm kiếm sự khôn ngoan, hiểu biết hay chân lý của cuộc sống thì nhận ra nơi Đức Giêsu một vị thầy dẫn đưa họ ngang qua những kinh nghiệm và tri thức nhân loại đến nhận biết Chúa Cha, và tìm thấy dấu chỉ của Thiên Chúa trong những biến cố cuộc sống (chẳng hạn Mt 5, 13 – 48; Lc 13, 1 – 5; Ga 3, 1 – 14).
Những người kiếm tìm một cuộc sống có ý nghĩa thì Người chỉ cho họ con đường để tới đó (chẳng hạn Mc 10, 17 – 21; Lc 12, 16 – 21; 22 – 34).
Người chữa lành những người bệnh tật và bị gạt ra bên lề xã hội. Qua bệnh tật của họ, Người chữa lành họ mang hai chiều kích: Người chữa họ về mặt thể lý và giúp họ tái hội nhập vào đời sống xã hội. Hơn nữa, họ còn được giải thoát (chẳng hạn Mt 8, 1 – 4; 14 – 15; Mc 2, 1 – 12; Lc 17, 11 – 19; 18, 35 – 43).
Trong tương quan cá nhân giữa Đức Giêsu và các môn đệ, Người hoàn toàn chia sẻ và thông truyền “kiến thức của Thiên Chúa” cho con người: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15).
Người biểu lộ chính mình như người mục tử mà Thiên Chúa đã hứa với Israel (Ed 34, 11 – 15). Người sống sự truyền thông cá vị với con người trong cái nhìn về sự truyền thông và hiệp thông của họ với Thiên Chúa, đến mức trao ban chính mình cho người mình yêu (Ga 10, đặc biệt Ga 10, 11).
Theo Greshake, việc Nhập Thể không nhằm mục đích chỉ cho con người thấy rốt cuộc họ sẽ “biết” Thiên Chúa là ai và Người đòi hỏi gì. Nhưng, trên thực tế đó lại là nền tảng tối hậu của truyền thông. Trong cuộc Nhập Thể, sự truyền thông của Thiên Chúa không đưa ra chỉ dẫn hay thông tin về Thiên Chúa cho con người. Đúng hơn, trong và qua Đức Giêsu, Thiên Chúa thông ban chính mình cách vô điều kiện cho con người. Cử chỉ tình yêu mang tính truyền thông này là không thay đổi. Con người, khi đón nhận ân sủng này, thì trở nên con cái của Thiên Chúa nhờ Chúa Con, và họ sẽ đạt đến cùng đích của mình, tức là, họ sẽ tham dự vào đời sống của Ba Ngôi.[130] Qua sự truyền thông của mình, Đức Kitô mặc khải cho con người biết Thiên Chúa là Đấng nào, đó chính là: “Thiên Chúa là tình yêu” (x. 1Ga 4, 8, 16). Đồng thời, Người cho thấy con người là gì: con cái của Thiên Chúa (x. 1Ga 3, 1), được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Người. Ngay cả khi chúng ta chỉ là những hữu thể tội lỗi và giới hạn, thì chúng ta vẫn được kêu gọi để sống hiệp thông với Thiên Chúa (x. Lc 15, 11 – 32). Tất cả những giáo huấn và việc chữa lành của Đức Giêsu đều tỏ rõ chân lý này. Đức Giêsu giảng dạy và sống để thông ban chính mình cho con người. Người sẽ thuyết phục họ và dành lấy họ về cho Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Chân lý mà Đức Giêsu chứng thực cho là một “biến cố truyền thông”; chứng tá của Người cho chân lý này sẽ thiết lập sự kết nối với Thiên Chúa và xây dựng mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người, cũng như mối tương giao giữa con người với nhau.
Trong sự tương tác lẫn nhau của truyền thông và hiệp thông, Đức Kitô cùng lúc là sự quảng diễn và người giải thích trái tim Thiên Chúa cho con người. Người là “Đấng thông truyền hoàn hảo.”[131] Đức Giêsu Kitô là biểu tượng trung tâm của Kitô giáo. Avery Dulles nhìn thần học biểu tượng của Rahner như một cách suy tư về các chiều kích của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình.[132] Trong suy tư của mình, Rahner nhấn mạnh đến tính cốt yếu của Đức Giêsu:
Nếu một thần học về thực tại biểu tượng phải được viết ra, thì Kitô học, giáo lý về việc nhập thể của Ngôi Lời, sẽ phải tạo thành đề tài trung tâm. Đề tài này không cần gì hơn một chú giải về câu: “Ai nhìn thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9). Không nhất thiết phải phơi bày sự kiện rằng Ngôi Lời là hình ảnh, họa ảnh, sự phản chiếu, đại diện và hiện diện – tràn đầy tất cả sự viên mãn của thần tính Thiên Chúa. Nhưng nếu điều này có thật, thì phát biểu này có thể hiểu được (đối với chúng ta): Ngôi Lời nhập thể là biểu tượng tuyệt đối của Thiên Chúa trong Thế Giới.” Biểu tượng tuyệt đối này của Thiên Chúa “không phải chỉ là sự hiện diện và mặc khải của điều mà Thiên Chúa có trong chính Người. Nhưng Người cũng là Hữu Thể bày tỏ (Da-sein) điều – hay đúng hơn Đấng – Thiên Chúa sẽ là, trong ân sủng tự do, đối với thế giới, trong cùng một cách mà thái độ thần linh này, đã từng được diễn tả như thế, có thể không bao giờ bị đảo lộn, nhưng là và vẫn còn là tột cùng và không thể trổi vượt hơn.[133]
De Mesa phân tích Ngôi Lời Thiên Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng của văn kiện Dei Verbum và chỉ ra rằng không có Đức Giêsu thì cũng không có truyền thông Kitô giáo. Ông giải thích rằng “Đức tin và Truyền thống Kitô giáo, các Giáo hội Kitô, sứ mạng của Kitô giáo sẽ không có nền tảng và lý do hiện hữu nếu không có Đức Giêsu.”[134] Ông suy tư về Ngôi Lời Giêsu trong viễn tượng datar, Lời Thiên Chúa trong lịch sử truyền thông của Người với Dân Israel trong Cựu Ước. Dabar trong khái niệm về mặc khải là một điều gì đó mà trước tiên đã có chỗ trong trái tim Thiên Chúa và được thể hiện thông qua dân mà Người đã chọn để thông ban lời Người. Tuy nhiên, trong mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Giêsu là sự biểu lộ rất cá vị của trái tim Thiên Chúa dành cho con người. Những lời của Đức Giêsu tỏ lộ “sự liên đới vô điều kiện và trung tín của Thiên Chúa đối với chúng ta” và mặc khải khuôn mặt của Thiên Chúa, “Đấng ban sự sống” cho những ai mà Người truyền thông với. Theo de Mesa, sự truyền thông của Đức Giêsu là “sự hiện diện hữu hiệu và có tính cách biến đổi” của Thiên Chúa.[135]
Phân tích sự truyền thông của Đức Giêsu, Eilers chỉ ra một số tiêu chuẩn có thể dùng như những nguyên tắc cho bất cứ sự truyền thông Kitô giáo nào:[136]
Việc cầu nguyện và tương quan của Đức Giêsu với Cha Người phải được xem như nền tảng việc Người truyền thông với mọi người. Bất cứ điều gì Người làm và nói đều tập trung vào Abba-Cha, Đấng mà Người cầu nguyện với suốt những đêm và giờ phút thinh lặng ở những nơi vắng vẻ.
Trong sự truyền thông của Người, Đức Giêsu luôn bắt đầu từ đời sống và kinh nghiệm sống của dân Người. Người được định hướng tiếp nhận-lắng nghe, nhưng đồng thời Người cũng bén rễ sứ vụ của mình từ nơi Chúa Cha.
Sự truyền thông của Đức Giêsu được đóng ấn trong Thánh Kinh. Người cho thấy trong truyền thông của mình cách thức làm sao mà thông điệp và sứ vụ của Người đã được chuẩn bị trước trong giao ước cũ với Israel.
Đức Giêsu cũng truyền thông qua việc hỏi và trả lời.
Đức Giêsu khiến cho người ta phải suy nghĩ và thách thức họ, theo những cách truyền thông khác nhau, trung thực trong cuộc sống mình và trước mặt Thiên Chúa. Họ bị thách thức đặt lại những ưu tiên thích đáng trong đời sống mình. Người lột trần những mặt nạ của truyền thông con người và khuyến khích, đòi hỏi những quyết định rõ ràng (Mt 8, 19tt; Lc 14, 26tt; Mc 10, 17). Người mắng những kẻ không dám đối diện với thực tại trong đời sống và ơn gọi của mình.
Đức Giêsu cũng truyền thông theo lối biện chứng chính đề và phản đề.
Đức Giêsu đặt người ta vào trong khủng hoảng và xung đột nhưng nhằm mục tiêu biến đổi và hoán cải; cuối cùng thì đó không chỉ là một sự chia sẻ thông tin mà còn là sẻ chia cuộc sống.
Qua truyền thông của mình, Đức Giêsu nhắc nhở và khuyên răn người ta về phẩm giá, về những bổn phận của họ, về việc họ được Thiên Chúa Cha yêu thương.
Đức Giêsu khuyến khích và mời gọi hướng tới sự hiệp nhất và nên một với Thiên Chúa và tha nhân. Người phục hồi lại sự truyền thông đã bị ngăn chặn và phá vỡ bởi tội lỗi.
Sự truyền thông của Đức Giêsu có một chiều kích cánh chung học: truyền thông của Người tìm được sự viên mãn của nó chỉ vào lúc tận cùng thời gian.
4.3 Thập giá như cử chỉ yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người
Một số người đã đặt vấn đề rằng, tại sao Đức Giêsu Kitô đã không thể thuyết phục được dân của chính Người hay tại sao Người đã không thể hoán cải được các luật sĩ và người Pharisêu trong thời Người, dù Người là Đấng thông truyền hoàn hảo. Theo quan điểm nhân học Kitô giáo, Karl Rahner nói về tự do của con người để cất tiếng “không” đối với lời mời gọi hiệp thông của Thiên Chúa. Khả thể này của con người nằm trong sự tự do mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người qua việc tạo dựng nó. Rahner nói đến điều này như “mầu nhiệm sự dữ,” (Geheimnis der Bosheit).[137] Sự thật này được Greshake xem như là “mầu nhiệm-đối nghịch” với sự sáng láng của Thiên Chúa Ba Ngôi tự trao ban chính mình.[138] Con người được kêu gọi tham dự vào một đời sống trong hiệp thông với Thiên Chúa. Dựa trên nền tảng đó, họ trở nên có khả năng chia sẻ đời sống một cách hữu hiệu với người khác. Tội lỗi hệ tại ở tiếng nói “Không” của con người. Trong khi Thiên Chúa là sự tự thông ban chính mình, sự hiệp thông và tình yêu, thì tội lỗi, trong bản chất của nó, là sự phủ nhận truyền thông, một kiểu tự xem mình là trung tâm và tự cô lập chính mình, là sự chối từ đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Theo Greshake, tội lỗi chỉ là một vấn đề cá nhân của các cá nhân từ chối ân huệ hiệp thông của Thiên Chúa, nhưng vì tính kết nối và mối tương quan lẫn nhau của toàn thể thực tại được tạo thành, những tội lỗi của các cá nhân ảnh hưởng lên toàn thể thế giới.[139] Giáo lý về tội nguyên tổ là lời tuyên bố của Kitô giáo về tính đa dạng của sự dữ, tồn tại trong thế giới. Nó tác động đến toàn thể cấu thành hiệp thông. Tình yêu Thiên Chúa bị xúc phạm bởi “tiếng Không” của con người, những kẻ được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Người. Tuy nhiên, tội lỗi không bao giờ có thể làm giảm bớt tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, và không bao giờ cản ngăn được Người trong việc tiếp tục thực hiện những kế hoạch Người dành cho con người. Theo kế hoạch của Thiên Chúa, con người phải được sống dồi dào. Vì chính lý do này mà Đức Giêsu đã đến trong thế gian (Ga 10, 10). Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình phải được nhìn từ viễn tượng cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Vì con người chối từ tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã tự mình triệt để đi đến tận cùng sự đau khổ mà tội lỗi đã gây nên: không chỉ là bạo lực, sự phản bội, tra tấn và cái chết, mà còn cả kinh nghiệm về việc bị Thiên Chúa bỏ rơi. Tình yêu Thiên Chúa dường như đi đến giới hạn vì “tiếng Không” của con người; Thập Giá là dấu chỉ về sự bất lực của Thiên Chúa toàn năng, Đấng đã trở nên yếu nhược vì tình yêu. Thiên Chúa Ba Ngôi trong cách nhìn này còn là vị Thiên Chúa đau khổ. Tuy nhiên, chính vị Thiên Chúa đau khổ này, khi Người chấp nhận Thập Giá nhờ Đức Giêsu Kitô, cũng bao gồm cả “tiếng Không” của con người trong tình yêu vô biên của Người. Theo nghĩa này, Thập Giá là chính dấu chỉ rất cụ thể về mặc khải của Thiên Chúa, như là một dấu lạ từ “trời.” Theo Greshake, trong biến cố Thập Giá, Chúa Con chịu đau khổ cùng với chúng ta và vì chúng ta; Chúa Cha đau khổ trong Chúa Con và với Chúa Con; và Chúa Thánh Thần, bản thân tình yêu của Thiên Chúa, hợp nhất Chúa Con với Chúa Cha bất chấp sự chia tách do tội lỗi gây ra.[140] Trong tấn bi kịch của Thập Giá, Thiên Chúa nói một cách yếu ớt, Người trở nên thinh lặng. Hơn nữa, Người hành động trong sự bất lực của tình yêu. Tất cả những lời giảng dạy và việc làm của Đức Giêsu trong suốt sứ vụ công bố về Nước Thiên Chúa giờ đây được đẩy lên đỉnh điểm trong sự thinh lặng này. Một cách đầy tính biểu tượng, trong sự thinh lặng của Thập Giá, Thiên Chúa cho con người thấy một cử chỉ của tình yêu vô tận của Người, một hành vi cuối cùng của việc Người tự thông ban chính mình. Bằng cách này, Thiên Chúa biểu lộ một cách đầy nghịch lý quyền năng thần linh của tình yêu Người. Trên thực tế, qua sự thinh lặng của Thập Giá và trong sự thinh lặng của nấm mộ, thông điệp về tình yêu vinh thắng của Thiên Chúa được công bố một cách mạnh mẽ nhất. Nhờ vào Thập Giá và qua sự Phục Sinh, sứ điệp Phục Sinh vui mừng được ban tặng cho thế giới mà không có âm vang nào của lời nói theo hình thái căn đệ nhất của nó.
Từ cách nhìn này, sự truyền thông của Đức Giêsu cần phải là kiểu mẫu cho truyền thông của Kitô giáo. Tính xác thực và sức sống của truyền thông của chúng ta được cắm rễ nơi tương quan với Đức Giêsu Kitô. “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em … Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em sẽ chẳng làm gì được” (Ga 15, 4 – 5). Đây là một sự cư ngụ trong sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nơi ấy tiếng nói của Người phải được lắng nghe trong trái tim mỗi Kitô hữu. Âm vang tiếng nói của Người phải được lắng nghe trong và bên kia sự biểu lộ ầm ĩ của những mong chờ và nỗi thống khổ, những niềm vui và nỗi thất vọng, sự chiến thắng và nỗi đớn đau của con người. Để truyền thông một cách hiệu quả Lời Thiên Chúa, những Kitô hữu truyền thông cần sử dụng sự thinh lặng đầy sáng tạo này, một sự thinh lặng mà trong đó Chúa Thánh Thần dạy cho chúng ta Lời Thiên Chúa, giải thích cho chúng ta ý nghĩa của Lời ấy và cho phép chúng ta truyền thông Lời ấy một cách chính xác.
👉 (đọc tiếp chương tiếp theo tại đây)
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.