Skip to content
Top banner

Những chiều kích của việc Thiên Chúa thông ban chính mình trong Mặc Khải

COMMUNICATION-THEOLOGY
2025-10-24 09:07 UTC+7 22

TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI DƯỚI GÓC NHÌN THẦN HỌC: THẦN HỌC TRUYỀN THÔNG

Nguyên tác: Ta, Anh Vu, and Franz-Josef Eilers, SVD. Social Communication in Theological Perspective: Communication Theology. Communicatio Socialis Prints, no. 1.

Người dịch: Vincent de Paul Nguyễn Đức Nam, O.Cist. (dvxitochauthuy.com)

Hiệu đính: Lm. Bernard Trần Nghiêm, O.Cist


TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI DƯỚI CÁI NHÌN THẦN HỌC(Franz-Josef Eilers, svd) 👉 (đọc bài viết tại đây)


THẦN HỌC TRUYỀN THÔNG (Ta Anh Vu)

1. Sự phát triển một khái niệm thần học

2. Nguồn gốc của ý tưởng về thần học truyền thông

3. Những chiều kích của việc Thiên Chúa thông ban chính mình trong Mặc Khải

3.1 Những khoảnh khắc căn bản của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong Cựu Ước

3.2. Tác động lý tính và năng động của Lời Thiên Chúa

3.2 Những đặc tính của sự truyền thông thần linh

4. Những chiều kích của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong mầu nhiệm Nhập Thể 👉 (đọc bài viết tại đây)

5. Vai trò của Chúa Thánh Thần

6. Giáo Hội như là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi: Một thực tại mang tính truyền thông 👉 (đọc bài viết tại đây)

7. Suy tư kết luận


3. Những chiều kích của việc Thiên Chúa thông ban chính mình trong Mặc Khải

Văn kiện Dei Verbum của Công đồng Vatican II tuyên bố:

Bằng cách mạc khải, Thiên Chúa đã muốn biểu lộ và thông ban chính mình Người cùng những ý định muôn đời của Người liên quan đến việc cứu độ nhân loại, “nghĩa là cho người ta được tham dự vào các của cải của Thiên Chúa hoàn toàn vượt quá sự hiểu biết của loài người.”[98]

Từ đời sống Ba Ngôi, Thiên Chúa thông ban chính mình; Người sáng tạo con người, tự mình hướng đến với họ, và mở ra cho họ những bí mật của đời sống ngôi vị của Người. Ý định của Thiên Chúa là cho con người được sẻ chia đời sống của Người. Thiên Chúa, Đấng hằng sống, đã nói với con người ngang qua cuộc sống và lịch sử cụ thể của chính con người. Đây là sự kiện chi phối toàn bộ tiến trình tự thông ban chính mình của Thiên Chúa đã được minh chứng trong Thánh Kinh.

Mặc khải thần linh nhờ Ngôi Lời của Thiên Chúa đối với cách hiểu Do Thái-Kitô giáo là con đường mà qua đó Thiên Chúa tự mình truyền thông với con người. Theo cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh, sách “Sáng Thế,” Thiên Chúa sáng tạo thế giới và con người nhờ Lời được truyền thông của Người “Hãy có…” Ngôi Lời của Thiên Chúa sáng tạo một trật tự như những điều kiện sống mà trong đó con người có thể sống. Điều này được chứng thực một cách kiên định bởi Thánh Kinh: Sau khi con người sa ngã, Lời Thiên Chúa hứa với con người, lời hứa ấy thúc đẩy, động viên họ, nó trao cho con người một sứ mạng cụ thể và làm cho họ có khả năng đáp trả lại Thiên Chúa. Thông qua mặc khải thần linh, Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử con người.

Đặc tính của mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu Ước là sự can thiệp của Người vào lịch sử loài người, cách cụ thể trong lịch sử Israel. Đó là sự can thiệp chỉ vì việc tuyển chọn tự do của Người. Sự can thiệp này được quan niệm dưới hình thức một cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Israel, dân Người chọn. Thiên Chúa nói, Israel lắng nghe và đáp trả. Thiên Chúa nói với con người; con người lắng nghe Thiên Chúa, đáp trả bằng đức tin và sự vâng phục. Sự thật và nội dung của truyền thông này được gọi là mặc khải. Trên thực tế, nghĩ về cách thức mặc khải của Thiên Chúa là nghĩ về những chiều kích của sự truyền thông của Người.

Về tổng thể, sự truyền thông của Thiên Chúa chứa đựng vô số dạng thức và phương tiện, trước hết như là kinh nghiệm của Israel về hoạt động của một quyền năng tối thượng làm thay đổi dòng lịch sử và hiện hữu mỗi cá nhân. René Latourelle nói rằng “hoạt động này không phải là một sự phô bày quyền lực tàn bạo, nhưng nó luôn được kết hợp chặt chẽ trong lời nói.”[99] Dân Israel hiểu toàn bộ lịch sử của mình như được khởi sự và đồng hành bởi Lời Thiên Chúa. Quyền năng của Lời Chúa là sự đối thoại, loan báo, giải thích, tỏ lộ một kế hoạch. Tuy nhiên, trong tiến trình mặc khải qua Cựu Ước, Thiên Chúa không nói với toàn thể nhân loại, nhưng trước hết Người chọn dân Israel. Những người này là các trung gian chuyển trao lời Người cho những người khác.

Cựu Ước rất thường sử dụng diễn ngữ “Lời Yahweh” như một lối diễn tả ưa thích, để diễn tả sự truyền thông của Thiên Chúa. Những cuộc thần hiện, những tỏ lộ hữu hình luôn tùy thuộc lời. Trong mặc khải Cựu Ước, tiên vàn không phải là việc nhìn thấy thần tính, nhưng là việc lắng nghe Lời Thần Linh. Lời Thiên Chúa kêu gọi Abraham được trình bày như một hành động nói thuần túy từ phía Thiên Chúa (St 12, 1tt). Thiên Chúa nói với Môsê “mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33, 11). Trong mặc khải trên núi Sinai, toàn bộ sức nặng của câu chuyện đặt trên Lời Chúa. Giữa các ngôn sứ, lời cũng đóng một vai trò cốt yếu, ngay cả trong các thị kiến của các ngài. Thông qua lời của mình, Thiên Chúa thông truyền chính mình và đưa con người đi tới hiểu biết về sự hiện hữu mật thiết của Người. Lời Thiên Chúa, trong toàn bộ dòng lịch sử của Israel, hướng dẫn và truyền cảm hứng cho dân tộc này.[100] Tận điểm của tiến trình truyền thông thần linh này là Israel đi đến hiểu biết Thiên Chúa của họ và sống với Người qua giao ước.

3.1 Những khoảnh khắc căn bản của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong Cựu Ước

“Toàn bộ Cựu Ước có thể được xem như một tường thuật về việc Thiên Chúa truyền thông với Israel, dân Người.”[101] Cựu Ước là một bằng chứng về đức tin của Israel. Trong phần Kinh Thánh này, Israel truyền lại cho các thế hệ sau kinh nghiệm về Thiên Chúa, Đấng hành động bằng nhiều con đường truyền thông khác nhau trong suốt lịch sử của họ và cũng là Đấng tự mình xác nhận ý định và quyền năng của Người để cứu độ dân Người đã tuyển chọn.

Trong bộ Ngũ Kinh, Kinh Thánh thuật lại chi tiết lịch sử cứu độ của Israel: từ những nguồn gốc, việc kêu gọi và giải phóng khỏi Ai Cập cho đến việc bước vào Đất Hứa. Trong cuốn Einleitung in das Alte Testament (Dẫn vào Cựu Ước) của mình, Erich Zenger mô tả một lịch sử truyền thông giữa Thiên Chúa và Israel. Thiên Chúa chia sẻ bản thân mình cho các tổ phụ. Người mặc khải chính mình cho Môsê được biết kế hoạch của Người. Người bày tỏ sự hiện diện của Người bằng nhiều cách khác nhau trong hành trình băng qua sa mạc của Israel. Cao điểm của sự gặp gỡ này là việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trên nui Sinai, tại đó Thiên Chúa ban cho Israel lề luật của Người là Thập Giới. Luật này làm cho họ trở thành một dân thánh, một dân có Thiên Chúa hiện diện ở giữa.[102]

Không phải là không có lý do mà câu chuyện về sáng kiến của Thiên Chúa trong việc tiếp tục truyền thông với con người được trình bày một cách trực tiếp sau khi nhân loại thất bại trong việc xây dựng một thành phố nhằm mục đích sống cùng nhau và giữ sự truyền thông với nhau, ngay cả “để làm rạng danh” hơn cho chính mình; kế hoạch đó đã không thành công (St 11). Câu chuyện tháp Babel vẫn còn là một biểu tượng về sự truyền thông lỗi và sự hiểu sai giữa con người vì công việc này chỉ dựa vào khả năng và sức mạnh của con người. Phía trong câu chuyện về loài người (St 1 – 9), Thiên Chúa nói với một người cụ thể là Abram nhằm mặc khải chính mình Người, và truyền thông kế hoạch của Người cho nhân loại, và như thế câu chuyện giữa Thiên Chúa và Israel, được nhìn theo nhãn quan Kinh Thánh, bắt đầu (St 12). Thiên Chúa thông truyền kế hoạch của Người cho Abraham, và hứa với ông rằng ông sẽ trở thành cha của một dân tộc lớn và một phúc lành cho họ, những người mà với họ ông chia sẻ cùng một sự sống (St 12, 1 – 3). Theo Erich Zenger, sự tuyển chọn Abraham và lời hứa ban đất là hai yếu tố cấu thành sự hiện hữu của Israel.[103] Sách Xuất Hành thuật lại lịch sử giải thoát Israel. Cao điểm là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa tại núi Sinai. Trong câu chuyện, Thiên Chúa đến tiếp xúc với dân được chọn thông qua Môsê. Thiên Chúa hiện ra với Môsê, nói với ông, và kêu gọi ông trở thành tôi tớ đặc biệt của Người từ bụi gai bốc cháy (Xh 3, 2). Về câu chuyện của Môsê, Eilers bình luận rằng Môsê đã tiến lại gần bụi gai hầu chắc là “vì tò mò nhiều hơn.” Ở đây, “Thiên Chúa sử dụng nhu cầu và khuynh hướng chung về thông tin của con người để thiết lập những mối tương quan và chuyển trao những sứ điệp và mối quan tâm của Người.”[104]

Israel đi tới “nhận biết” Thiên Chúa trước hết khi họ kinh nghiệm về quyền năng mà Người dùng để giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập; và họ tiếp tục đào sâu đức tin của mình nhờ nhiều lời nói và việc làm mà Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử của chính họ.[105] Trong biến cố truyền thông này, Thiên Chúa sử dụng tự nhiên (các tai ương bên Ai Cập, việc vượt qua Biển Đỏ) nhằm biểu lộ quyền năng và ý định của Người để giải phóng Israel và làm họ trở thành dân được Người chọn. Ngay cả một cường quốc như Ai Cập cũng không thể ngăn cản Thiên Chúa thực hiện kế hoạch của Người cho Israel. Cuộc giải thoát này đạt tới đích điểm trong cuộc thần hiện tại núi Sinai, nơi Thiên Chúa tỏ lộ chính mình cho Israel và ký kết giao ước với họ (Xh 19, 1 – 7). Theo Martini, giờ phút ký kết giao ước trên núi Sinai là một “biến cố căn bản” trong việc Thiên Chúa truyền thông với Israel.[106] Trong tương quan đặc biệt này, Lời Thiên Chúa (Thập Giới: “Mười Lời”) được thông truyền là điều đặt nền tảng cho sự hiện hữu của Israel và làm cho họ trở thành một dân. Thiên Chúa gọi họ ra khỏi Ai Cập, đồng hành với họ qua sa mạc, và lúc bấy giờ quy tụ họ lại và ban cho họ Lời Người, Lời đặt nền tảng và bảo đảm cho một dân vừa mới ra đời (Xh 20, 2 – 17). Theo Erich Zenger, biến cố truyền thông này là yếu tố thứ ba trong sự hiện hữu của Israel.[107] Sự truyền thông của Thiên Chúa nhắm vào việc làm cho con người tham dự vào mối hiệp thông thần linh. Biến cố trên núi Sinai là khoảnh khắc có ý nghĩa hiện sinh của tương quan truyền thông giữa Thiên Chúa và dân Israel. Trong biến cố này, Thiên Chúa biến Israel, như là con đầu lòng của Người, thành đối tác truyền thông của Người để rồi từ đây về sau họ sống trong tương quan với Thiên Chúa nhờ việc tuân giữ giao ước. Bởi điều này, Zenger gọi phần đầu của Kinh Thánh, thường được biết đến như Cựu Ước, là Giao Ước Thứ Nhất.[108] Dựa trên kinh nghiệm này, Israel tin rằng chính Thiên Chúa, Đấng đã nâng họ lên khỏi sự hư không của ách nô lệ Ai Cập, cũng là Đấng đã gọi vũ trụ ra khỏi hư vô mà đưa vào hiện hữu.

Từ cách nhìn này, thế giới được đặt nền tảng trên lời Thiên Chúa. Sự truyền thông của Thiên Chúa vận hành một cách cụ thể và đó là căn bản cho mọi sự kiện và biến cố trong thế giới. Thiên Chúa phán và mọi thứ được tạo thành. Người đặt tên cho các tạo vật, và ngay khi Người cất tiếng, tạo thành được gọi ra từ hư vô. Lời Thiên Chúa ban hiện hữu và sự sống cho thực tại được tạo thành (St 1, 1tt). Thánh Vịnh 33 diễn tả niềm tin này: “Một lời CHÚA phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú… Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Người ra lệnh truyền, tất cả được dụng nên” (Tv 33, 6, 9). Các tạo vật được gọi vào hiện hữu bởi lời Thiên Chúa. Chúng biểu lộ sự hiện diện, vẻ uy nghi, sự khôn ngoan của Người (Tv 19, 2 – 5; G 26, 7 – 14; Cn 8, 22 – 31; Hc 42, 15 – 43; Kn 13, 1 – 9). Trong các bản văn khác của Cựu Ước, Thiên Chúa thông truyền chính mình dưới hình thức các cuộc hiện ra trong thiên nhiên: Người xuất hiện ẩn giấu trong đám mây (Xh 13, 21), bốc cháy như một ngọn lửa (Xh 3, 2; St 15, 17), ầm ầm trong bão tố (Ex 19, 16; Tv 29, 2tt), nhẹ nhàng như một cơn gió thoảng (1V 19, 12tt), một kiểu truyền thông không lời đồng hành và xác nhận Lời Thiên Chúa. Hơn nữa, Lời Chúa làm nên trật tự, bảo vệ sự sống con người. Theo nguồn văn truyền thống tư tế trong Cựu Ước, vũ trụ là sự biểu lộ ý muốn của Thiên Chúa mà qua các tinh tú và biển khơi xác định thời gian phụng vụ, các ngày Sabat và các đại lễ (St 1, 3 – 8); sự truyền thông của Thiên Chúa tạo nên trật tự như là điều kiện sống chống lại sự hỗn loạn phá hủy đời sống.[109] Sau khi Israel đã đạt được đời sống mới do sự can thiệp nhưng không của Thiên Chúa, họ phải duy trì đời sống này bằng việc giữ gìn trật tự mà Thiên Chúa đã ban cho họ nhằm bảo vệ cuộc sống. Bằng cách đó, Thiên Chúa liên tục thông truyền mệnh lệnh của Người từ “lều hội ngộ” như là biểu tượng của sự hiện diện của Người giữa Israel (Lv 1, 1). Toàn bộ sách Levi mô tả những luật lệ bảo đảm cho cộng đồng mới này.

Biến cố mang tính truyền thông tại núi Sinai vẫn luôn duy trì khoảnh khắc trung tâm và căn bản của sự truyền thông của Thiên Chúa. Nhờ Lời Chúa đã được thông ban trên núi Sinai, Israel đã đạt được căn tính dân tộc và tôn giáo của mình. Trong suốt thời lưu đày, Israel dường như đã đánh mất căn tính dân tộc và tôn giáo này, vì Thiên Chúa đã dường như bỏ rơi họ. Tuy nhiên, ngay cả khi đền thờ và đất nước không còn nữa (đền thờ Jerusalem đã bị phá hủy, Israel đã bị tản mác), Thiên Chúa cũng không ngừng thông ban Lời của Người cho những người bị phân tán thông qua các ngôn sứ. Người đã dùng các ngôn sứ để an ủi và soi sáng cho Israel trong hoàn cảnh mới. Lời Người thông ban đã đem lại hy vọng cho những người bị tản mác sống trong cảnh lưu đày (Ed 33, 1tt). Nhờ các ngôn sứ, Thiên Chúa đã nhắc nhỡ Israel về nguồn gốc của họ, về nơi mà Thiên Chúa đã làm cho họ trở thành một dân tộc từ sự hư không bên Ai Cập. Ngay giữa một hoàn cảnh tuyệt vọng, Thiên Chúa đã gửi các ngôn sứ của Người, những người đã truyền rao, công bố và loan báo lời Người cho Israel. Theo René Latourelle, “Yahweh nói Lời Người cho vị ngôn sứ. Nơi vị ngôn sứ, Lời này trở nên một thực tại năng động, được ban chính quyền năng của một Thiên Chúa là Đấng thông truyền.”[110] Theo Zenger, Thiên Chúa đã thông ban chính mình nhờ các ngôn sứ trong tư cách là một Thiên Chúa duy nhất trao phó chính mình cho lịch sử nhân loại và thế giới.[111]

Giữa cơn khủng hoảng mang tính dân tộc và tôn giáo, Israel đã nghe đi nghe lại Lời Thiên Chúa, Lời có một quyền năng hoạt động trên mọi thực tại được tạo thành (Is 40, 26; 45, 16; 48, 13). Lời Thiên Chúa đã không chỉ sáng tạo và thống trị trên mọi sự mà còn là động lực của lịch sử. Từ khởi đầu lịch sử Israel, Thiên Chúa luôn truyền thông Lời và mặc khải kế hoạch của Người cho dân được tuyển chọn (Is 45, 18 – 19; 48, 16). Thiên Chúa nắm giữ những cực điểm của lịch sử (Is 41, 4; 44, 6; 48, 12). Lịch sử của Israel có thể hiểu được bởi vì nó trải dài theo một kế hoạch mà Thiên Chúa mặc khải một cách tiệm tiến cho con người. Lời ngôn sứ tìm được phạm vi hoạt động của nó trong lịch sử, Latourelle phát biểu rằng “lời ngôn sứ là người tác tạo và giải thích lịch sử.”[112] Dân Do Thái đã đi đến hiểu biết Thiên Chúa bằng cách họ đã kinh nghiệm về sự can thiệp của Người trong dòng lịch sử nhân loại: sự khai sinh Israel như là một dân tộc, việc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, hành trình quanh co qua sa mạc, việc xâm chiếm Đất Hứa. Suốt 40 năm, Thiên Chúa đã cùng đồng hành với dân Người qua mọi nẻo đường, đã biểu lộ sự hiện diện của Người ngang qua nhiều dấu lạ và điềm thiêng, dẫn dắt họ như một người mục tử. Vị ngôn sứ liên tiếp nhắc lại những sự kiện ấy, hoặc là để nhắc nhở Israel về lòng trung thành họ phải có với giao ước, hoặc là trong suốt thời gian lưu đày, để công bố về một cuộc xuất hành mới, một giao ước mới (Is 54 – 55).

Hoạt động của Thiên Chúa, điều khiến cho lịch sử trở thành một công trình cứu chuộc hay sự luận phạt, là sự truyền thông không ngừng của Người. Sự truyền thông này khởi động và hướng dẫn mọi biến cố, và giải thích những ý nghĩa của lịch sử Israel. Khi LỜI tác động trên các sự vật, nó tác thành, khi tác động trên con người, nó trở thành luật. Mọi biến cố mang tính lịch sử của Israel phải được nhìn dưới nhãn quan về một Thiên Chúa truyền thông. Lời ngôn sứ không chỉ loan báo về lịch sử và làm nó vận động, mà còn lý giải nó. Vị ngôn sứ ngụp lặn trong lịch sử thời đại của ngài; trong thực tế lịch sử này, Thiên Chúa mặc khải ý định của Người, kế hoạch cứu độ của Người cho ngài. Vị ngôn sứ phục vụ như người trung gian giữa Thiên Chúa và con người trong kế hoạch mang tính cứu độ này. Dựa trên lời Thiên Chúa, vị ngôn sứ nhận thức được ý nghĩa của các biến cố, giải thích lịch sử từ cái nhìn của Thiên Chúa, và làm cho con người thời đại ngài hiểu được nó. Latourelle chỉ ra rằng “nội dung chính xác của lời này (lời Thiên Chúa) trở nên có thể hiểu được chỉ nhờ lời của vị ngôn sứ. Mặc khải-biến cố và mặc khải-lời, có thể nói được, là hai mặt của lời Thiên Chúa.”[113]

Văn chương khôn ngoan là điển hình một truyền thống rất xa xưa trong Israel (1V 5, 9 – 14; 10, 1 – 13, 23 – 25). Theo Latourelle, văn chương khôn ngoan ưa thích tính đại chúng mới trong các thời Ba Tư và Hy Lạp: các sưu tập hiện hành (ví dụ Cn 10, 1 – 22, 16; 25 – 29) được gia cố thêm bởi nhiều tác phẩm (Gióp, Giảng Viên, Huấn Ca, Khôn Ngoan). Văn chương khôn ngoan thì có lên hệ với nỗ lực nhân loại hướng tới một tri thức đúng đắn cho phép con người nhận thức được trật tự bao trùm tất cả, tồn tại trong đời sống hằng ngày. Tuy nhiên, dân Israel tin rằng sự khôn ngoan được đặt nền tảng trên lòng kính sợ Chúa (Cn 1, 7). Có nhiều dạng truyền thông khôn ngoan: các châm ngôn, bài thuyết giảng, ngụ ngôn, thơ ca, chuyện kể v.v… Israel có được những hiểu biết khôn ngoan của mình nhờ những kinh nghiệm trong đời sống cùng nhau và bởi sự gặp gỡ giao lưu văn hóa với các dân tộc láng giềng khác. Những kho tàng khôn ngoan đã sớm được Israel biến đổi thành một công cụ cho việc truyền thông sứ điệp của Thiên Chúa. Cũng một Thiên Chúa ấy, Đấng ban ánh sáng cho vị ngôn sứ, là Đấng vận dụng kinh nghiệm nhân loại để thông ban chính mình cho con người (Cn 2, 6; 20, 27). Ban đầu, sự khôn ngoan này là suy tư đơn sơ, tích cực và hiện thực, về cách cư xử của một người, nhằm giúp người ấy hướng dẫn đời sống của mình với sự cẩn trọng và chín chắn. Trong văn hóa Hy Lạp, suy tư này sẽ mang một xu hướng tự biện hơn và biến đổi thành triết học. Tại Israel, kho tàng kinh nghiệm và khôn ngoan nhân loại đã nhanh chóng được sống động hóa bởi hơi thở tôn giáo của Yahweh: kinh nghiệm và sự khôn ngoan nhân loại được thâu nhận, nhưng được giải thích và truyền lại dưới ánh sáng của đức tin vào Đức Yahweh của Israel. Hơn nữa, kinh nghiệm mà từ đó suy tư khôn ngoan này thường xuyên được thanh luyện để thuộc về mặc khải: sáng tạo (Hc 43), lịch sử khiến cho người ta nhận biết những đường lối của Thiên Chúa (Hc 44 – 50), các sách lịch sử, Luật và các ngôn sứ (Hc 39, 1tt).[114]

Biểu đồ dưới đây minh họa cho tiến trình truyền thông của Thiên Chúa ngang qua Lời Người trong suốt lịch sử Israel. Nó cho thấy Lời Thiên Chúa được truyền thông như thế nào, những đặc tính và mục đích của Lời ấy.

3.2. Tác động lý tính và năng động của Lời Thiên Chúa

Ngang qua mọi cách thức mà Thiên Chúa truyền thông với con người trong lịch sử Israel, Lời Thiên Chúa tự bản tính mang một chiều kích lý tính và năng động. Latourelle phân tích ý nghĩa của dabar nhằm cho thấy tính hai mặt này của lời Chúa. Datar là “điều thốt ra khỏi miệng” (Ds 30, 13) hay “môi mép” (Gr 17, 16) một người, nhưng cũng có nguồn mạch nơi lòng người ấy. Dabar diễn tả, thể hiện ra bên ngoài điều mà một người đã quyết định trước trong tâm hồn (St 17, 17; Tv 14, 1), hoặc điều nảy sinh từ trong lòng (Gr 3, 16; Is 65, 17) hay trong tâm trí người ấy. Như thế, lời không phải là sự diễn tả thuần túy các ý tưởng trừu tượng; nó tràn đầy ý nghĩa, nó có một nội dung lý tính, do bởi sự tập trung của một người về một đối tượng hay do sự xuất hiện những tư tưởng bên trong chộp lấy người ấy, nhưng cùng lúc nó lại diễn tả một trạng thái của tâm hồn; một điều gì thuộc về tâm hồn người ấy thấm nhuần lời được nói ra, được thốt lên rõ ràng. Latourelle nói như sau:

Đối với Israel, lời có tác động hai mặt: lý tính và năng động. Một mặt, nó là sự diễn tả những tư tưởng, ý định, kế hoạch, quyết định; nó là bài diễn văn có thể hiểu được; nó làm sáng tỏ ý nghĩa của các sự kiện; nó “đặt tên” cho các sự vật, vì tên gọi là thực tại trong mức độ thực tại có thể hiểu được. Và mặt khác, nó là một tác động năng động, một năng lực hoàn tất điều nó biểu thị; nó ảnh hưởng đến điều mà một người suy nghĩ và quyết định trong lòng. Lời của khao khát, của hứa hẹn, của lệnh truyền – hoạt động của nó kéo dài xuyên suốt toàn bộ tiến trình mà nó phát động.[115]

Từ hậu cảnh này, lời Thiên Chúa, trong một ý nghĩa sâu xa, thông truyền hữu thể thâm sâu nhất của Người để trao ban sự sống cho con người và đồng thời biến đổi hướng đi của đời sống họ. Khi Lời Thiên Chúa được thông truyền cho một người, Lời ấy buông lỏng một năng lực vận hành và một cách căn bản biến đổi cuộc sống người ấy. Con người ấy, người mà Thiên Chúa đã truyền thông với, không còn như một người như trước kia nữa. Đời sống người ấy bị thay đổi bởi sự truyền thông của Thiên Chúa: người ấy được kêu gọi hướng tới một căn tính mới hay một đời sống mới. Sự thực này được tỏ lộ trước hết trong sự thay đổi tên gọi, và luôn liên quan đến công thức “chúc lành và nguyền rủa” (St 17, 5, 15; 35, 10 và St 27; 2Sm 12, 1 – 8; 5, 12 – 31). Lời Thiên Chúa có tính chất lý tính cũng như năng động. Một mặt, nó sáng tạo thế giới, áp đặt luật lệ của Người, và phát động lịch sử. Mặt khác, nó biểu lộ ý định của Thiên Chúa, kế hoạch cứu độ của Người. Lời Thiên Chúa tác động một cách không có ngoại lệ đến điều mà nó nói. Thiên Chúa sai Lời Người đến như một sứ điệp sống động và Người canh giữ nó nhằm hoàn thành nó.

3.2 Những đặc tính của sự truyền thông thần linh

  • Trước tiên, Thiên Chúa là Đấng có sáng kiến thông truyền chính mình cho con người qua một biến cố mang tính truyền thông liên ngôi vị. Thiên Chúa đồng thời là chủ thể và đối tượng trong toàn bộ tiến trình: Thiên Chúa, Đấng thông truyền chính mình và Đấng để cho chính mình được truyền thông. Theo Greshake, khi Thiên Chúa trao ban chính mình cho con người trong Lời Người, tiến trình trao đổi qua lại vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan của Lời này được xác định và thực hiện một cách tuyệt diệu.[116] Thiên Chúa hằng sống bước vào trong tương quan với con người. Người thiết lập một giao ước với con người, giống như một vị Chúa Tể với tôi tớ của mình, và như thế, một cách liên tục, như một người cha với đứa con của mình, như một người với bạn hữu của mình, như một chàng rể với nàng dâu của mình. Sự truyền thông của Thiên Chúa đưa con người vào mối hiệp thông với Người vì ơn cứu độ của con người ấy. Trong sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Israel, không phải con người khám phá Thiên Chúa. Đúng hơn, Thiên Chúa là Đấng tỏ mình ra khi Người muốn, cho kẻ mà Người muốn, và bởi vì Người muốn. Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình xảy ra do bởi ý định tự do và yêu thương của Người. Thiên Chúa có sáng kiến chọn dân Người, ban cho họ lời hứa của Người, và đưa họ vào tương quan thân tình với Người. Người là Đấng ấn định giao ước trước. Đồng thời, Người cũng là Đấng canh tân khả thể và khả năng (tái) truyền thông vì ơn cứu độ con người. Theo cách nhìn này, sự truyền thông của Thiên Chúa là một quà tặng. Nó đem đến sự tự do để sống trong một tinh thần tương quan và đối thoại hỗ tương

  • Thiên Chúa thông ban chính mình nhờ Lời Người. Tôn giáo của Cựu Ước là một tôn giáo của Lời. Lời Thiên Chúa mà xưa kia đã gọi vạn vật bước vào hiện hữu đã tiếp tục được biểu lộ trong suốt lịch sử Israel, nhằm mục đích tái kết nối Israel với Thiên Chúa. Lời ấy tạo thành và che chở sự sống của con người. Lắng nghe Lời Thiên Chúa và tuân giữ lời ấy, Israel đi đến nhận biết Người và kế hoạch của Người. Phúc lành hay sự nguyền rủa, sống hay chết đều phụ thuộc vào thái độ con người chấp nhận hay chối từ Lời Thiên Chúa (Dt. Chương 5 và 6). Nhưng mục tiêu và tận điểm của việc Thiên Chúa truyền thông là sự sống và ơn cứu độ con người, là mối hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa. Sự thông ban Lời Thiên Chúa biểu lộ một nguyên mẫu nền tảng: (1) Lời tạo nên một trật tự chống đỡ cuộc sống con người trong tương quan của nó với Thiên Chúa và với tha nhân; (2) Lời mời gọi con người bước vào một đời sống với Thiên Chúa; (3) khi mà con người không vâng phục Lời Thiên Chúa, điều này sau đó gây nên sự đánh mất căn tính tôn giáo và dân tộc của Israel, thì Lời ấy lại cho phép một hiện hữu mới và mời gọi Israel quay trở lại mối hiệp thông với Thiên Chúa; và (4) Lời giúp Israel đọc và hiểu lịch sử của mình.

  • Sự truyền thông của Thiên Chúa không trừu tượng, nhưng Lời Người được nói một cách cụ thể, trong lịch sử và qua lịch sử. Sứ điệp của Thiên Chúa luôn được tháp nhập vào lịch sử. Người sử dụng các phương thế tự nhiên, những kinh nghiệm nhân loại và lịch sử để truyền thông ý định của Người cho con người. Người dùng nhiều cá nhân (các tư tế, các hiền nhân và các ngôn sứ, các vị vua và những người quyền quý, những nông dân và người mục tử, phụ nữ và đàn ông) để chuyển trao sứ điệp của Người. Người chọn nhiều cách truyền thông khác nhau (các cuộc thần hiện, các giấc mơ, các cuộc hội đàm, các thị kiến, các cuộc xuất thần v.v…) để tỏ cho Israel biết kế hoạch của Người. Người diễn tả ý định của Người trong các sấm ngôn, lời khuyên nhủ, thuật truyện, miêu tả, thánh thi, văn chương khôn ngoan, suy niệm, v.v… Nói cách khác, Người sử dụng các nền văn hóa và các phương tiện truyền thông nhân loại để tiếp cận con người nhằm giúp họ có thể nghe Lời Người. “Như thế, Thiên Chúa truyền thông theo nhiều cách, bằng lời cũng như không lời, và cuối cùng sự truyền thông của Người được trình bày, duy trì và đóng ấn xác nhận trong một cuốn sách, một phương tiện truyền thông là bằng chứng về hành động truyền thông của

  • Thiên Chúa.”[117]

Nghiên cứu sự truyền thông của Thiên Chúa theo lối nhìn Thánh Kinh, Martini nhận ra một số tiêu chuẩn cho sự truyền thông của Thiên Chúa mà ngài xem như là cơ sở cho bất cứ sự truyền thông nào của con người và của người Kitô hữu.[118]

  1. Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình được chuẩn bị trong thinh lặng và trong bí mật của Người. Đó là một “mặc khải mầu nhiệm vốn được giấu kín từ ngàn xưa” (Rm 16, 25). Đó là mầu nhiệm “được giấu kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa là Đấng tạo thành vạn vật” (Ep 3, 9).

  2. Thiên Chúa truyền thông với con người cách liên tục, tích lũy và có tính lịch sử. Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình không được thực hiện chỉ trong một chốc lát, nhưng đúng hơn gồm chứa nhiều thời điểm và sự kiện khác nhau cần phải được hiểu và đọc trong toàn bộ tiến trình của chúng. Nó diễn ra trong những cảnh huống của thế giới chúng ta, những cảnh huống cũng bị biến đổi theo cùng theo cách này. Sự truyền thông của Thiên Chúa được nhận biết thông qua các biến cố và ngôn từ có liên quan đến nhau và giải thích cho nhau. Toàn bộ biến cố mang tính truyền thông này được gọi là “lịch sử cứu độ” và được tường thuật trong Kinh Thánh – cuốn sách về sự thông ban chính mình của Thiên Chúa.

  3. Việc Thiên Chúa truyền thông hiện thực học chính nó theo một đường lối biện chứng. Sự truyền thông này không xuất phát từ vinh quang đến vinh quang, trong ánh sáng mà không chút mờ tối. Đúng hơn, có một chuỗi kế tiếp nhau các biến cố của ánh sáng và của bóng tối. Chỉ một sự giải mã kiên nhẫn toàn bộ tiến trình của các ngôn từ và sự kiện mới có thể dẫn tới sự hiểu biết đầy đủ về sự truyền thông của Thiên Chúa. Điều kiện là phải sẵn lòng kiếm tìm và chấp nhận những dấu vết của sự hiện diện của Thiên Chúa, chuẩn bị chính mình mà đón nhận sứ điệp của Người. Toàn thể truyền thông thì từ tốn, thận trọng và tôn trọng người khác.

  4. Sự truyền thông của Thiên Chúa không đạt tới viên mãn trên thế gian này. Người ta phải phân biệt giữa truyền thông “trên đường đi” (in via) và truyền thông “về đến nhà” (in patria). Sự truyền thông của Thiên Chúa trên trần gian có những giá trị của nó trong việc tham dự trước vào điều sẽ đến vào lúc viên mãn thời gian khi chúng ta thấy Thiên Chúa như Người là (1Ga 3, 2). Mọi truyền thông trong lịch sử đều là chưa hoàn thành trong cái nhìn hướng về sự viên mãn cuối cùng của Nước Thiên Chúa. Điều này cho thấy rằng trên thế gian này chúng ta sẽ không bao giờ biết hoàn toàn về người khác, về điều người ấy là. Sẽ luôn luôn có một bí mật, một không gian riêng không thể được làm sáng tỏ hoàn toàn, ngay cả trong bản thân chúng ta.

  5. Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình mang tính cá vị. Thiên Chúa truyền thông chính mình, chứ không phải là một điều gì khác. Mọi thứ Thiên Chúa thông truyền ra bên ngoài Người đều là dấu chỉ và biểu tượng về ý định thông truyền chính bản thân Người như tặng phẩm cao trọng nhất. Đồng thời, sự truyền thông của Thiên Chúa cũng có tính liên vị. Nó lôi cuốn con người – kẻ nhận lãnh tặng phẩm này. Việc này đòi hỏi sự chú tâm, đón nhận và lắng nghe. Không có lời đáp trả và sự phản hồi thì cũng không có truyền thông chân thực. Thiên Chúa hằng sống kêu gọi con người sống động đánh thức chính mình để tin tưởng và hy vọng.

  6. Sau cùng, sự truyền thông của Thiên Chúa mang lấy mọi dạng thức truyền thông liên vị. Sự truyền thông của Người thì có tính thông tin, lôi cuốn và đồng thời là tự truyền thông. Trong sự truyền thông của Người, Thiên Chúa thông tin về chính Người và lôi cuốn con người bằng cách mời gọi, hứa, ngăm đe, răn bảo; nhưng toàn bộ hành động truyền thông của Người rốt cuộc chỉ là tự truyền thông bởi vì điều Người thực sự muốn thông truyền là Ngôi vị của Người.

Có nhiều cách thức khác nhau để Thiên Chúa truyền thông trong Cựu Ước. Chúng được trình bày trong hình thức những lời hứa, những mệnh lệnh và sự ngăm đe; những cuộc thần hiện khủng khiếp hay thân thiện, những sấm ngôn, những giấc mơ và thị kiến, những nghi lễ và thể chế. “Trong Tân Ước, vô số những hình thức này tự biến chuyển thành sự hợp nhất của Ngôi Vị Chúa Con nhập thể, diễn tả chính Người nhờ xác phàm, tức là, bằng cử chỉ, lời nói và hành động.”[119]


👉 (đọc tiếp chương tiếp theo tại đây)

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.