Skip to content
Top banner

Quan niệm của Karl Rahner về “Tự Thông Ban” của Thiên Chúa cho con người

COMMUNICATION-THEOLOGY
2025-11-15 10:14 UTC+7 53

QUAN NIỆM CỦA KARL RAHNER VỀ “TỰ THÔNG BAN” CỦA THIÊN CHÚA CHO CON NGƯỜI

Nguyên tác: Cawte, John. “Karl Rahner’s Conception of God’s Self-Communication to Man.” Heythrop Journal 25 (1984): 260–271

Chuyển ngữ: Tu sĩ Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM


Trong bài “Theos in the New Testament” (Thiên Chúa trong Tân Ước), Rahner phân biệt giữa “biểu thị” (signifying) và “đại diện/ đứng thay” (standing for). Từ phân biệt này, ông đặt vấn nạn: trong cách dùng Tân Ước, liệu thuật ngữ Hy lạp ho Theos (ὁ Θεός) mang nghĩa “chỉ thường xuyên đại diện (stands for) cho Chúa Cha và, thường xuyên hơn nữa, đại diện chỉ chung cho Thiên Chúa Ba Ngôi”; hay liệu thuật ngữ ho Theos này “luôn mang ý nghĩa biểu thị (signifies) Chúa Cha chứ không chỉ đơn thuần đại diện cho Ngài (Theological Investigations Tập 1, trang 126) [1]. Rahner khẳng định và minh chứng rằng trong Tân Ước, ho Theosbiểu thị cho Ngôi Thứ Nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa”, và rằng “những trường hợp ngoại lệ không hề nâng đỡ ý kiến cho rằng ho Theos chỉ đại diện cho Chúa Cha mà không thực sự biểu thị Ngài” (Sđd, 126 tt.).

Cách dùng từ “Thiên Chúa” (God) trong Tân Ước như là “biểu thị Chúa Cha” đã được các Giáo phụ Hy Lạp tiếp nhận và trở thành nét đặc trưng trong trực giác Ba Ngôi của các ngài. Trái lại, một cách dùng khác – trong đó “Thiên Chúa” đôi khi đại diện Chúa Cha nhưng thường hơn diễn tả thần tính như là bản tính thần linh – lại đặc trưng cho thần học Ba Ngôi theo truyền thống Latinh. Vì thế, nếu tiền giả định thần học Ba Ngôi Latinh và hiểu “Thiên Chúa” nơi Rahner như “Ba Ngôi nói chung”, thì là hiểu sai dụng ý của ông. Nền tảng cho cách dùng “Thiên Chúa” của Rahner là thần học Kinh Thánh và, tương ứng, là trực giác Ba Ngôi Hy Lạp.

Trong bối cảnh “tự thông ban của Thiên Chúa” (God’s self-communication – Selbstmitteilung), Rahner xác quyết, “Thiên Chúa là ‘Chúa Cha’, nghĩa là Thiên Chúa tuyệt đối vô khởi (simply unoriginate God)” [2]. Do đó, khi Rahner nói về “lời hứa của Thiên Chúa dành cho con người” (God’s promise to man) hay “Thiên Chúa hướng đến con người” (God’s turning-towards man) (TI XIII, 215), thì “Thiên Chúa” ở đây biểu thị Chúa Cha, và trong chính trong tư cách vô khởi của Ngài – Đấng tự do và khôn dò (incomprehensible). Chúa Cha là Mầu nhiệm. Vì thế, khi Rahner viết về “tự phát ngôn của Thiên Chúa” (God’s utterance) và “việc Thiên Chúa hướng đến”, ông muốn nói đến “tự phát ngôn của Chúa Cha như là mầu nhiệm” và “việc Chúa Cha như là mầu nhiệm hướng đến”. Dầu có tự phát ngôn (utterance) và hướng đến (turning-towards), Mầu nhiệm của Chúa Cha vẫn còn đó, vì như là Cha, Ngài là mầu nhiệm. Khi Ngài nói với con người hoặc tự hiến (bestows) chính mình cho con người, Ngài”ra khỏi mình” mà không “đánh mất mình”. Ngài tự phát ngôn chính mình, nhưng như Mầu Nhiệm, như Đấng Vô Khởi. Cần nhấn mạnh nghĩa này của “Thiên Chúa”, vì đây là hiểu biết nhất quán xuyên suốt phương phép của Rahner. Nhờ đó ta mới có thể hiểu đúng các diễn ngữ “tự hủy mình của Thiên Chúa” (self-emptying of God – Selbstentäußerung), “tự phát ngôn của Thiên Chúa” (self-utterance of God – Selbstaussage), hay “tự thông ban  của Thiên Chúa” (self-communication of God – Selbstmitteilung): trong các diễn ngữ này, “Thiên Chúa” biểu thị “Chúa Cha”, mầu nhiệm vô khởi (x. TI IX, 124).

Các diễn ngữ như “lời hứa của Thiên Chúa” và “Thiên Chúa hướng đến” hàm ý một mối tương quan, hay đúng hơn, một sự hướng về một đối tượng nhất định. Đối tượng minh định ở đây là con người. Thiên Chúa nói với con người. Thiên Chúa hướng đến con người. Trong cả hai, giả định rằng con người hiện hữu (existent); hơn nữa, giả định rằng Thiên Chúa có thể thiết lập một hình thức thông giao nào đó với con người. Cả hai giả định này đặt ra những câu hỏi về các điều kiện khả thể ở cả hai phía – thần linh và con người.

Về phía thần linh, Làm sao Thiên Chúa có thể tự phát ngôn (utter) chính mình cho con người, nghĩa là, theo một cách nào đó, trở nên một với con người mà không trở thành hữu hạn? Làm sao Thiên Chúa có thể thông ban (communicate) chính mình mà không đánh mất bản thân? Tương quan giữa tự hủy mình (God’s self-emptying), sự tự phát ngôn (self-utterance)) và sự tự thông ban (self-communication) của Thiên Chúa là gì? Liệu có thể có một “lời Thiên Chúa nói về chính mình” mà không có khả thể “tự phát ngôn” không? Liệu “tự phát ngôn” có nội tại hàm ngụ “tự thông ban”, ít là như một khả thể, không? Có mối liên hệ nội tại nào giữa tạo dựng và ‘tự phát ngôn” của Thiên Chúa không?

Về phía con người, Con người chỉ là “thụ thể thực tế” (factual recipient) của “lời phán” từ Thiên Chúa, hay “tự phát ngôn hướng ngoại” của Thiên Chúa chính là “điều kiện khả thể” cho sự hiện hữu của con người? Có thể hiểu con người mà không có khả thể về một “tự phát ngôn” tự do của Thiên Chúa không? Tương quan giữa tạo dựng, đặc biệt là con người, với “tự phát ngôn” của Thiên Chúa là gì?

1.

Hãy bắt đầu với chính Thiên Chúa. Lý do xuất phát này đến từ cính phương pháp tiếp cận của Rahner. Ông đặt vấn nạn: liệu khả thể của công trình sáng tạo có tùy thuộc vào khả thể Thiên Chúa trở nên thụ tạo hay không; hay nói cách khác, liệu khả thể của một điều gì đó được “ném vào” thế giới có tùy thuộc vào “việc Thiên Chúa tự phóng chiếu” (self-projection) vào thế giới không (TI IV, 236). Ở đây, cần minh định rằng chúng ta đang bàn về trật tự hữu thể (order of being – ontological order), chứ không phải trật tự nhận thức (order of knowledge – epistemological order). Cũng không khởi đi từ những khái niệm tĩnh tại đối lập: không giả định sẵn “Thiên Chúa bất biến” (immutable) theo nghĩa “không thể chịu bất cứ biến đổi nào”; cũng không xuất phát từ một thực tại hữu hạn rồi hỏi nó liên hệ thế nào với một Thiên Chúa bất biến. Điểm khởi hành là Thiên Chúa—Đấng “không thể định nghĩa” (indefinable)—được xét trong chiều kích biện chứng: tức là “khả thể tự do” của Thiên Chúa tự thông ban “ra bên ngoài”

Khả thể nguyên thủy của Thiên Chúa trong tự do của Ngài là “trở nên”, là “biến đổi”, trong tha thể (the other). Không nên hiểu điều này theo phạm trù tĩnh, nhưng theo phạm trù biện chứng: vẫn là chính mình, Thiên Chúa có thể “tự hủy” đến mức, trong chính hành vi tự hủy ấy, Ngài “đặt để” hiện hữu của tha thể. Ngài ban chính mình mà không đánh mất mình. Ngài thiết lập hiện hữu của tha thể và “giữ lấy” nó như của Ngài; đồng thời, khi “giữ lấy”, Ngài cũng “thiết lập” nó như một thực tại đích thực và phân biệt. Ngài vẫn viên mãn, nhưng đồng thời “trở nên” nơi tha thể. Tha thể được đặt để như một thực tại “thuộc về” Ngài. Đây là “khả thể tự do nguyên thủy” của Thiên Chúa—Ngài có thể tự đặt mình vào lịch sử, vào biến đổi. Biến đổi này, mà Ngài có thể chịu “trong tha thể” được Ngài giữ lấy như của Ngài ngay trong hành vi cấu tạo nó, là khả hữu không phải “bất chấp” tính tuyệt đối của Ngài, nhưng “chính vì” tính tuyệt đối ấy (Sđd.; xem thêm TI IV, 115).

Vì thế, theo Rahner, khả thể của sáng tạo tùy thuộc khả thể Thiên Chúa trở nên thụ tạo. Đây là “khả thể nguyên thủy” của Thiên Chúa; còn sáng tạo là thứ yếu so với khả thể ấy. Khả thể nguyên thủy này được làm sáng tỏ nhờ các “yếu tố nội tại” Rahner phân biệt trong chính nó.

Trước hết, cần phân biệt giữa “tính tất yếu” Thiên Chúa “tự biểu hiện” hướng nội (expressing himself inwardly) và “khả thể” Ngài “tự biểu hiện” hướng ngoại (expressing himself outwardly). “Chính vì Thiên Chúa phải ‘tự biểu hiện’ hướng nội nên Ngài cũng có thể ‘tự biểu hiện’ hướng ngoại” (TI IV, 236). Khả thể hướng ngoại lệ thuộc vào tất yếu hướng nội; và vì lệ thuộc, nó được định dạng bởi tất yếu ấy. Rahner phát biểu theo ngôn ngữ Ba Ngôi: “Ba Ngôi nội tại là điều kiện tất yếu cho khả thể ‘tự thông ban’ tự do của Thiên Chúa” (tức hướng ngoại: Tr, 102, chú thích 21). Không đi sâu các chứng minh trình bày nơi khác, chỉ cần nhớ nguyên lý then chốt: “[Ba Ngôi nhiệm cuộc = Ba Ngôi nội tại] và [Ba Ngôi nội tại = Ba Ngôi nhiệm cuộc]” (sđd., 22).

Sau phân biệt ấy, xét đến các “khoảnh khắc” trong chính “tự biểu hiện”: Rahner phân biệt “tự thông ban” (Selbstmitteilung), “tự hủy” (Selbstentäußerung), “tự biểu hiện” (Selbstausserung), và “tự phát ngôn” (Selbstaussage). Ở nhiều bối cảnh, các thuật ngữ có thể được dùng gần như hoán vị; có nơi, ông đặt ba thuật ngữ trong cùng một câu để ám chỉ sắc thái khác nhau: “Sáng tạo, như điều kiện khả thể, trở thành một yếu tố trong ‘tự hủy’, ‘tự phát ngôn’ và ‘tự thông ban’ của Thiên Chúa” (TI XIII, 218). Dựa trên nguyên lý trên, có thể hiểu các thuật ngữ này quy chiếu cả hướng nội lẫn hướng ngoại. Dấu chỉ Rahner thực sự phân biệt là lối chơi chữ giữa Selbstausserung (tự biểu hiện) và Selbstentäußerung (tự hủy) khi bàn Nhập Thể: “Thiên Chúa ‘tự biểu hiện’ (sich äußert) khi Ngài ‘tự hủy’ (sich entäußert)” (TI IV, 116—nhấn mạnh của tác giả). Kế đó, ông minh nhiên xác định: “tự phát ngôn” của Thiên Chúa (Chúa Cha) chính là “Ngôi Lời” của Ngài (ibid.).

Trong “Nền tảng Đức tin Kitô giáo” (Foundations of Christian Faith) [3], Rahner nhấn mạnh: “Lời” của Thiên Chúa không phải một lời Ngài “nói về” chính mình, nhưng chính là “tự phát ngôn” của Ngài. Để “Lời” là “tự phát ngôn”, thì “tự phát ngôn” ấy phải là “tự biểu hiện”; và như Rahner đã nói, Thiên Chúa “tự biểu hiện” khi Ngài “tự hủy”. “Tự hủy” là “tự biểu hiện”. Khi bàn “tự thông ban” (Selbstmitteilung), Rahner nhắc: đừng hiểu như thể trong mạc khải Thiên Chúa chỉ “nói điều gì đó” về mình; đúng hơn, đó là “ban trao bản thể ngôi vị” của chính Thiên Chúa như Ngài là. Tránh khách thể hóa: đây là “ban chính Thiên Chúa” như Mầu nhiệm. Và “tự thông ban” diễn ra “qua ‘tự hủy’”. Nói như vậy không phủ nhận nhấn mạnh nhất quán của Rahner về “một hành vi ‘tự thông ban’ duy nhất” với “các khoảnh khắc nội tại tương quan” (Tr, 85); chỉ là trong những ngữ cảnh nhất định, ông tập trung vào Ngôi Lời và mầu nhiệm Nhập Thể.

Có thể phác chuỗi điều kiện như sau: ở đây ta đang xét “tự thông ban tất yếu hướng nội”. Vì Chúa Cha “phải” tự thông ban, nên Ngài “phải” có khả năng tự hủy. Vì “phải” tự hủy, nên “phải” có khả năng tự biểu hiện. Vì “phải” tự biểu hiện, nên “phải” có khả năng tự phát ngôn. Nói cách khác: “tự hủy” là điều kiện khả thể của “tự thông ban”; “tự biểu hiện” là điều kiện khả thể của “tự hủy”; “tự phát ngôn” là điều kiện khả thể của “tự biểu hiện”. Như Rahner lưu ý, điều này không có nghĩa “khả thể nội tại” của “tự thông ban như thế” có thể được trực tri.

Lưu ý

Nội dung bài viết mà bạn đang xem đã được giới hạn. Bạn vui lòng ĐĂNG NHẬP để có thể xem toàn bộ nội dung bài viết.
Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.