Skip to content
Top banner

Giáo Hội như là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi: Một thực tại mang tính truyền thông

COMMUNICATION-THEOLOGY
2025-10-24 09:09 UTC+7 18

TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI DƯỚI GÓC NHÌN THẦN HỌC: THẦN HỌC TRUYỀN THÔNG

Nguyên tác: Ta, Anh Vu, and Franz-Josef Eilers, SVD. Social Communication in Theological Perspective: Communication Theology. Communicatio Socialis Prints, no. 1.

Người dịch: Vincent de Paul Nguyễn Đức Nam, O.Cist. (dvxitochauthuy.com)

Hiệu đính: Lm. Bernard Trần Nghiêm, O.Cist


TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI DƯỚI CÁI NHÌN THẦN HỌC(Franz-Josef Eilers, svd) 👉 (đọc bài viết tại đây)


THẦN HỌC TRUYỀN THÔNG (Ta Anh Vu) 👉 (đọc bài viết tại đây)

1. Sự phát triển một khái niệm thần học

2. Nguồn gốc của ý tưởng về thần học truyền thông

3. Những chiều kích của việc Thiên Chúa thông ban chính mình trong Mặc Khải 👉 (đọc bài viết tại đây)

4. Những chiều kích của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong mầu nhiệm Nhập Thể 👉 (đọc bài viết tại đây)

5. Vai trò của Chúa Thánh Thần

6. Giáo Hội như là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi: Một thực tại mang tính truyền thông

6.1 Những khía cạnh căn bản của Giáo Hội như là một thực tại mang tính truyền thông

6.2 Hiệp thông/Koinonia và truyền thông

6.3 Kerygma như là một chiều kích truyền thông của Giáo Hội

6.4 Năm mô hình truyền thông của Giáo Hội

6.5 Những hàm ý thần học dành cho truyền thông xã hội

6.5 Những chiều kích truyền thông xa hơn của Giáo Hội

7. Suy tư kết luận


6. Giáo Hội như là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi: Một thực tại mang tính truyền thông

Chương này không có nhiệm vụ trình bày toàn bộ lĩnh vực Giáo Hội học. Những suy tư dưới đây tập trung vào chiều kích truyền thông của Giáo Hội trong mức độ Giáo Hội được xem như là “dấu chỉ và khí cụ” của ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người. Mô tả ngắn gọn này hàm ý bản tính sâu xa của Giáo Hội, được nhìn dưới quan điểm truyền thông. Bản tính bí tích của Giáo Hội được đặt nền tảng trên sự tự truyền thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Theo đó, thật là quan trọng để xem xét cách thức mà Giáo Hội được suy tư theo nền tảng, cấu trúc và sứ vụ của mình.

Trước và trong suốt Công đồng Vatican II, đối diện với thế giới “hiện đại”, Giáo Hội đã lần nữa nhận ra tầm quan trọng của việc phản tỉnh về sự tự tự nhận biết bản thân của mình hướng đến nhân loại đang phát triển một cách nhanh chóng. Việc canh tân ý thức về chính mình này tất yếu được nối kết với vấn nạn về niềm tin vào Thiên Chúa và sứ vụ của Giáo Hội trong thế giới. Công đồng đã xây dựng những nền tảng cho việc Giáo Hội tự hiểu biết mình như chúng ta có thể tìm thấy chúng trong các văn kiện của Công đồng. Trong bối cạnh này, những văn kiện quan trọng nhất của Công đồng, cần phải được đem ra xem xét, là Dei Verbum, Lumen Gentium, Sacrosantum Concilium, và Gaudium et Spes. Chúng đặt ra những nền tảng cho một suy tư thần học mới mẻ trong tương quan với một thế giới phát triển liên tục và nhanh chóng. Đối mặt với những thách đố của thế giới hiện đại, Giáo Hội sẽ trình bày cho nhân loại: (1) Thiên Chúa mà Giáo Hội tin vào là Đấng nào, (2) Giáo Hội là ai giữa thế giới này, (3) điều mà Giáo Hội phải thông truyền cho thế giới là gì, và (4) Giáo Hội sống tương quan với nhân loại vì mục đích gì.

Qua Hiến chế Tín lý về Mặc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, Giáo Hội trình bày một Thiên Chúa, Đấng thông ban chính mình, như là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần để cho con người được chia sẻ đời sống thần linh của Người.[147] Giáo Hội, nhờ Đức Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần, là người thừa kế đặc biệt của việc Thiên Chúa Ba Ngôi tự thông ban chính mình. Một cách chính xác, việc Ba Ngôi tự thông ban chính mình là nền tảng của Giáo Hội, từ nền tảng này Giáo Hội hiểu chính mình. Sự hiểu biết về Giáo Hội này được giải thích trong Hiến chế Tin lý Lumen Gentium.[148] Dựa trên việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình và lời mời gọi của Người dành cho “Dân Thiên Chúa,” được Chúa Con kêu gọi và được Chúa Thánh Thần thánh hóa, Giáo Hội thừa kế sứ vụ thánh từ Đức Giêsu Kitô để thông truyền Thiên Chúa và tình yêu của Người cho nhân loại.

6.1 Những khía cạnh căn bản của Giáo Hội như là một thực tại mang tính truyền thông

Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium tuyên bố “Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại.”[149] Trong cách nhìn này, Giáo Hội được xem như là bí tích căn bản (tiếng Đức: Grundsakrament) mà qua đó ơn cứu độ của Thiên Chúa trở nên hữu hình và khả giác. Tuy nhiên, Đức Giêsu Kitô là Bí Tích Nguyên Ủy (tiếng Đức: Ursakrament) mà từ đó Giáo Hội đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa do tình yêu và ân sủng tự do của Người.[150] Từ sự thông truyền của Đức Giêsu và từ tự thông ban của Chúa Thánh Thần trong ngày Lễ Hiện Xuống, Giáo Hội được sinh ra để tiếp tục làm lan tỏa Tin Mừng của Thiên Chúa – tức là Đức Giêsu –[151] cho nhân loại. Điều này hàm ý rằng Giáo Hội luôn phải sống trong truyền thông và hiệp thông với Đức Giêsu để thông truyền tình yêu Thiên Chúa cho con người. Không có mối tương quan năng động này với Đức Giêsu Kitô, Giáo Hội không thể đạt được ý nghĩa thật sự của bản tính mình, nghĩa là sự nối dài truyền thông của Ba Ngôi trong lòng nhân loại. Điều mà Đức Giêsu đã hoàn thành trong suốt cuộc đời Người giờ đây được ấn định cho Giáo Hội; Giáo Hội phải tiếp tục công trình cứu độ của Thiên Chúa trong thế gian. Đức Giáo Hoàng Phaolo VI nhấn mạnh điều này trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi: “Giáo Hội hiện hữu để loan báo Tin Mừng, nghĩa là, để rao giảng và dạy dỗ, để trở thành kênh dẫn truyền món quà ân sủng, để hòa giải những người tội lỗi với Thiên Chúa và để duy trì mãi mãi hy tế của Đức Kitô trong Thánh Lễ tưởng niệm cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Người.”[152] Bằng cách này, “Giáo Hội vẫn mãi là một dấu chỉ – cùng lúc vừa mơ hồ vừa sáng tỏ – của sự hiện diện mới mẻ của Đức Giêsu, của hành trình và sự hiện diện vĩnh cửu của Người. Giáo Hội kéo dài và tiếp nối Người. Và trên tất cả, sứ vụ và cuộc sống của Người như một người loan báo Tin Mừng chính là điều mà Giáo Hội được kêu gọi để tiếp nối. ”[153] Như thế, Giáo Hội là hình ảnh và là “dung mạo” của Thiên Chúa truyền thông trong cái ở đây và bây giờ của con người, qua lời nói, qua việc làm, và các dấu chỉ. Theo cách nhìn này, Giáo Hội “là nhà truyền giáo do chính bản chất của mình.”[154] Vì vậy, Giáo Hội trong yếu tính của mình là truyền thông.

Nói chung, chính việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình gọi Giáo Hội bước vào hiện hữu và là nền tảng sự truyền thông của Giáo Hội. Như thế, Giáo Hội được xem như là một biểu tượng của Ba Ngôi, “như một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”[155] Chỉ với điều kiện được tháp nhập vào trong đời sống của Ba Ngôi, Giáo Hội mới có khả năng giữ được căn tính của mình như là cộng đoàn của sự hiệp thông và mới có thể nhận ra rằng đời sống mang tính truyền thông chân thực thì dựa trên kiểu mẫu của đời sống Ba Ngôi. Bởi vậy, “Giáo Hội là truyền thông.”[156]

Vì lý do này, chiều kích truyền thông của Giáo Hội khởi đầu bằng đời sống mang tính truyền thông trong tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi. Điều này bao hàm trước hết sự rộng mở và sẵn sàng đón nhận Lời Thiên Chúa và điều mà Chúa Thánh Thần sẽ dạy bảo Giáo Hội qua những biến cố xảy ra trên thế giới. Chỉ trong mối tương quan năng động của hiệp thông và truyền thông với Thiên Chúa, Giáo Hội mới có khả năng và khả thể duy trì và đẩy mạnh một đời sống mang tính truyền thông giữa các thành phần qua việc chia sẻ đức tin, đức mến và trách nhiệm đối với người khác. Chỉ bằng cách này, Giáo Hội mới có thể trở nên một dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới.[157]

Thần học gia người Đức Jürgen Werbick suy tư về những chiều kích truyền thông của Giáo Hội dựa theo quan điểm thần học căn bản và Giáo Hội học. Ông quả quyết rằng qua việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình, “truyền thông đã trở thành một phạm trù tiêu chuẩn thần học căn bản.” Theo ông, mặc khải, đức tin, truyền thống và các thực hành của Giáo Hội có thể được xem như là những thực tại căn bản có tính truyền thông.[158] Trong bối cạnh này, đức tin được nhìn như một thực hành cố gắng biểu lộ và thông truyền quyền năng cứu độ của Thiên Chúa cho tha nhân.

Sự truyền thông của Giáo Hội cho nhân loại diễn ra trong một tiến trình năng động mang tính truyền thông mà trong đó nội dung của đức tin được gìn giữ và chia sẻ cho thế hệ tương lai. Trong tiến trình liên tục này của truyền thống, Giáo Hội hình thành và giữ gìn căn tính của mình, phát triển thể chế riêng của mình giữa xã hội con người. Toàn thể tiến trình tiếp nối đức tin được đặt cơ sở trên một ký ức truyền thông: đó là một ký ức biết ơn về việc được tuyển chọn bởi ân sủng của Thiên Chúa và đồng thời được Người ủy thác mang sứ điệp của Người đến cho người khác: thực tại thánh.[159] Bằng cách này, Giáo Hội chia sẻ và công bố Đức Kitô vào trong cái ở đây và bây giờ thuộc mọi nơi mọi lúc mà ở đó Giáo Hội tìm thấy chính mình. Trong việc thông truyền Đức Kitô và sống đức tin, mầu nhiệm đời sống Ba Ngôi tự hiện thực hóa chính mình trong đời sống của Giáo Hội. Cùng đích sứ vụ của Giáo Hội là con người có thể đạt tới cùng một kinh nghiệm về đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và với người khác. Vì vậy, thánh sử Gioan nói:

Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu,

điều chúng tôi đã nghe,

điều chúng tôi đã thấy tận mắt,

điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,

và tay chúng tôi đã chạm đến,

đó là Lời sự sống.

Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày,

chúng tôi đã thấy và làm chứng,

chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời,

sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha

và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi.

Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe,

chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa,

để chính anh em

cũng được hiệp thông với chúng tôi,

mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha

và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người.

(1Ga 1, 1 – 3).

Trong và qua Giáo Hội, “thực tại Ba Ngôi” sẽ được kinh nghiệm và thông truyền. Thực tại mang tính truyền thông Ba Ngôi này là “nền văn hóa truyền thông mới.” Đó là lý do mà Giáo Hội cùng một lúc là “dấu chỉ và khí cụ.” Werbick đào sâu chiều kích truyền thông này của Giáo Hội khi ông suy tư về mối tương liên của hiệp thông/Koinonia và truyền thông.

6.2 Hiệp thông/Koinonia và truyền thông

Hiệp thông/Koinonia và truyền thông được đan kết cách chặt chẽ với nhau. Trên thực tế, việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình là thực tại nền tảng cho tiến trình mang tính truyền thông này của đời sống Giáo Hội. Được nhìn dưới quan điểm đức tin Kitô giáo, đó là khái niệm chính đối với sự hiện hữu của con người và của Giáo Hội. Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho phép con người bước vào một tương quan hỗ tương. Qua sự truyền thông của Thiên Chúa, con người trở nên đối tác truyền thông của Người. Việc Người tự thông ban chính mình đạt đến hình thái cao nhất của nó trong sự tự thông ban mang tính ngôi vị của Đức Giêsu Kitô: việc nhập thể. Chúa Thánh Thần thông truyền Ngôi vị-ân sủng của Người cho Giáo Hội và làm cho Giáo Hội có khả năng sống trong sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con; đồng thời Thánh Thần cũng nâng đỡ sự hiệp thông giữa các Kitô hữu. Theo viễn tượng này, Giáo Hội cần phải phản chiếu sự hiệp thông mang tính truyền thông của Thiên Chúa giữa thế giới. Dựa trên nền tảng này, Giáo Hội nhận thấy chính mình là sự tiếp nối của việc Thiên Chúa truyền thông với nhân loại. Qua một đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và giữa các tín hữu, Giáo Hội làm chứng cho một “nền văn hóa truyền thông mới.”[160]

Hiệp thông/Koinonia là diễn tả hữu hình và có thể nhận thấy được của nền văn hóa truyền thông mới này. Dựa vào khái niệm-Koinonia, Werbick suy tư và phân tích về các chiều kích của sự truyền thông của Giáo Hội. Koinonia (tiếng Latin: communio) có nghĩa là tham dự vào, là có gì đó chung với nhau, là hành động chung. Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem hiến dâng chính mình “cho việc giảng dạy của các Tông Đồ, cho đời sống chung (koinonia), cho lễ bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2, 42). Sống trong đó, các Kitô hữu thời sơ khai nhận ra Nước Thiên Chúa và làm tái hiện Đức Kitô, Đấng đã khai mở và thực hiện nó trong chính con người và cuộc sống Người. Sự hiện diện của Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần lần lượt khiến cho họ có khả năng đem tài sản của mình làm của chung (Cv 4, 34tt). Trong viễn tượng này, cộng đoàn các Kitô hữu sẻ chia và truyền thông koinonia với Đức Kitô. Vì vậy, thánh Phaolo mô tả sự tham dự mang tính truyền thông này vào Đức Kitô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corinto của ngài khi nói rằng các Kitô hữu tham dự vào ân sủng của Thiên Chúa được phú ban trong Đức Kitô để họ trở nên phong phú “về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người” (x. 1Cr 1, 4, 5). Hơn nữa, biến cố mang tính truyền thông này còn xảy ra cách cụ thể nơi Bí tích Thánh Thể (x. 1Cr 10, 16 – 21). Sự hiệp thông mang tính truyền thông trong Đức Kitô và giữa các Kitô hữu xây dựng nên nhiệm thể Người: Giáo Hội (x. 1Cr chương 12). Bằng cách này, thông truyền Đức Kitô cho người khác có nghĩa là truyền thông với Đức Kitô trong người khác. Nhờ việc thực hiện những mô hình đời sống này, Giáo Hội đi theo mô hình truyền thông của Ba Ngôi. Trong tiến trình truyền thông này, mỗi người được nhìn nhận bằng những tiềm năng, những tài năng và đặc sủng của mình để xây dựng sự hiệp thông. Tuy nhiên, để thực hiện nhiệm vụ của mình trong tiến trình truyền thông này, mỗi người cũng nhất thiết phải truyền thông với Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần như là nguồn mạch cho bất cứ sự truyền thông và hiệp thông nào. Mỗi người có quyền và trách nhiệm phải đóng góp vào sự hiện thực hóa Nước Thiên Chúa. Bởi vậy, Werbick đề nghị:

Người trao tặng sẽ được hân hạnh nhờ những tặng phẩm; Chúa Kitô được siêu tôn và Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho Chúa Giêsu trở nên có thể chạm đến được, sẽ được tôn kính qua các đặc sủng và qua ân huệ sự sống được ban tặng cho chúng ta trong tấm bánh và chén rượu là Mình và Máu Thánh Người. Truyền thông-Thánh Thần – và Kitô – diễn ra nơi những ân huệ này, những ân huệ xây dựng nên cộng đoàn hướng đến sự hiệp thông-Kitô.[161]

Từ đây, truyền thông không chỉ là một vấn đề về tổ chức hay hoạt động của Giáo Hội. Tiên vàn, đó là một cách thế hiện hữu chính yếu. Nếu hiểu rõ về điều này, Giáo Hội sẽ tìm ra được những phương pháp truyền thông. Vì thế, mối quan tâm của Giáo Hội về truyền thông sẽ không được suy tư đầy đủ nếu chỉ đối phó với các vấn đề như: làm thế nào để ứng dụng các phương tiện truyền thông (các công cụ, kỹ nghệ) hoặc làm thế nào để đến được với người nghe. Hiệp thông và truyền thông thì không thể tách rời và cùng thuộc về chính bản chất của Giáo Hội. Bước theo Đức Kitô như “Đấng thông truyền hoàn hảo” (trong bản dịch tiếng Đức: Thầy dạy sự truyền thông), Giáo Hội nhìn nhận chính mình như một khí cụ truyền thông và đồng thời là con đường đặc biệt để Thiên Chúa truyền thông bên trong xã hội loài người. Dựa trên điều này, Giáo Hội phải nhào nặn nên một văn hóa mang tính truyền thông giữa các tín hữu và dành cho nhân loại. Ở đây, truyền thông mang một chiều kích thiêng liêng.

Chiều kích thiêng liêng của truyền thông Giáo Hội cần phải được nhìn trong thần học tình yêu theo thánh sử Gioan. Thiên Chúa là tình yêu và người ta có thể dự phần vào tình yêu này khi người người ấy tin vào Thiên Chúa và vào Chúa Con, Đấng mà Thiên Chúa sai đến để thông truyền tình yêu của Người. Người ta tham dự vào tình yêu này nếu họ ở lại trong Người (Ga 15, 9 – 10). Tình yêu hợp nhất Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Các tín hữu sẽ được hội nhập vào trong sự hiệp thông mang tính truyền thông này của tình yêu. Từ đó, Giáo Hội đạt tới sự hiệp thông của mình và đón nhận di sản cùng sức mạnh để làm chứng cho sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi (x. 1Ga 3, 24; 4, 15 – 17; Ga 17, 21 – 24). Vì lý do này, Giáo Hội cũng được kêu gọi để trở nên “cung thánh hiệp thông”, trong đó người tín hữu nhớ đến ân huệ của việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình và truyền thông ân huệ này, ân huệ bảo đảm cho sự hiệp thông của họ.

“‘Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.’ Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’” (Ga 20, 21 – 22). Là Giáo Hội có nghĩa là được dự phần vào sự truyền thông của Đức Giêsu, điều này muốn nói tới việc tham dự vào sự truyền thông và hiệp thông của Ba Ngôi. Trước hết, nhờ ân sủng, Giáo Hội được tháp nhập vào trong đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa nhờ Chúa Con theo ý muốn của Chúa Cha. Theo cách nhìn này, Đức Giêsu, như là Bí Tích Nguyên Ủy (Ursakrament), làm cho con người nhận biết Thiên Chúa. Chỉ trong sự hiệp thông với Đức Giêsu và trong Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể nhận ra chính mình như là bí tích căn bản (Grundsakrament) mà nhờ đó sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ được chứng thực và thông truyền.[162]

6.3 Kerygma như là một chiều kích truyền thông của Giáo Hội

Dựa trên sự hiệp thông/truyền thông với Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần, và trên sự hiệp thông/truyền thông giữa các thành viên của mình, Giáo Hội được xem như là một cộng đoàn tưởng nhớ, công bố, giải thích, và cả cử hành Lời truyền thông của Thiên Chúa nữa. Đồng thời, Giáo Hội cũng thông truyền, với tư cách là một cộng đoàn, sứ điệp này cho thế giới. Ở đây, chiều kích kerygma của Giáo Hội lộ diện. Giáo Hội thực hiện điều này theo ba cách thế truyền thông căn bản: Chứng tá, Phụng vụ và Phục vụ (Martyria, Leitugia, và Diakonia).[163] Giáo Hội nhớ Lời Thiên Chúa đã nói trong suốt dòng lịch sự nhân loại, đặc biệt là Ngôi Lời nhập thể và điều mà Thiên Chúa muốn nói qua việc Người tự thông ban chính mình. Trong hành vi này, Giáo Hội đáp trả lại điều đó (sự truyền thông hỗ tương trong nhãn quan về việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình). Khi ấy, Giáo Hội đọc lại và nghe lại Lời này trong bối cảnh của thời đại gần đây và truyền thông Lời Thiên Chúa cho con người thời đại này (truyền thông có tính ngôn sứ). Ở đây, chiều kích kerygma của truyền thông của Giáo Hội đóng một vai trò quan trọng. Trong các bí tích của Giáo Hội, người ta có thể kinh nghiệm về những chiều kích mang tính truyền thông và cứu độ của đời sống Thiên Chúa dành cho con người (truyền thông nhập thể). Bằng cách này, họ thấy trước sự hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa rằng con người sẽ sống trong sự hiệp thông trọn vẹn với Người trong cuộc sống tương lai (truyền thông Ba Ngôi). Trong bối cạnh này, những việc phục vụ khiêm tốn của đức ái, của tình liên đới, và cho công bằng là những mô hình khác của truyền thông Giáo Hội, một cử chỉ không lời của “sự trao ban chính mình vì tình yêu” giống như cách mà Đức Giêsu Kitô truyền thông.[164] Loại truyền thông này củng cố và bổ sung cho truyền thông-Lời. Ba chiều kích căn bản này của truyền thông Giáo Hội cần phải thấm nhập vào tất cả các hoạt động tại mọi cấp bậc trong Giáo Hội. Vì Giáo Hội được xây dựng như một tổ chức con người, và vì thế cần một loại thể chế nào đó, trong đó một cấu trúc nào đó cho phép thực hiện các nhiệm vụ đặc thù của các thành viên trong những tình huống mang tính truyền thông khác nhau. Avery Dulles trình bày một số mô hình truyền thông của Giáo Hội.

6.4 Năm mô hình truyền thông của Giáo Hội

Trong sứ vụ của mình với vai trò tiếp nối truyền thông của Thiên Chúa trong thế giới, “Giáo Hội là một mạng lưới truyền thông rộng lớn được thiết kế để đưa con người ra khỏi sự cô lập và bất hòa của họ và để đem họ theo từng cá nhân và theo tập thể vào sự hiệp thông với Thiên Chúa trong Đức Kitô.”[165] Theo cách nhìn này, Giáo Hội là một thực tại mang tính truyền thông, nơi mà mỗi thành viên chịu trách nhiệm đối với sự hiện thực hóa Nước Thiên Chúa theo năng lực truyền thông của mình. Mỗi một phần tử của Giáo Hội chịu trách nhiệm thông truyền sứ điệp của Thiên Chúa.

Nghiên cứu và phân tích các văn kiện của Công đồng Vatican II dưới quan điểm truyền thông, Avery Dulles đưa ra năm nhận định mà ông xem như những mô hình truyền thông của Giáo Hội. Theo các lối tiếp cận khác nhau, Giáo Hội phải thông truyền Tin Mừng, điều này phản ánh tính đa dạng của các trách nhiệm.

1/ Mô hình phẩm trật hay cơ chế

Trong mô hình này, truyền thông được nhìn như là một tiến trình đi xuống, bắt đầu từ Thiên Chúa, qua các đức giáo hoàng và hàng giám mục đến các phần tử khác của Giáo Hội. Những nguồn mạch của đức tin, tức là Thánh Kinh và Thánh Truyền, được giao phó cho huấn quyền có tính phẩm trật mà bổn phận của huấn quyền ấy là giữ gìn và giải thích kho tàng đức tin, đặc biệt là qua việc ban hành các sắc lệnh. Theo mô hình thứ nhất này, nội dung của giáo huấn có thẩm quyền của Giáo Hội là giáo lý đức tin và luân lý, được chứa đựng cách rõ ràng hay ẩn tàng trong kho tàng đức tin, bao gồm bất cứ điều gì cần giải thích hay bênh vực đức tin. Mô hình thứ nhất đề cập đến “tương quan bên trong Giáo Hội giữa những người quản lý lời và những người mà họ phục vụ. Mô hình này tạo nên một sự phân biệt rõ nét giữa phẩm trật như là các thầy dạy có thẩm quyền (ecclesia docens) và phần còn lại trong các tín hữu như là những người thụ huấn (ecclesia discens).” Theo Dulles, ở đây mô hình truyền thông dường như là “giáo huấn của Giáo Hội được chứa đựng trong các công bố rõ ràng và chính xác được ban hành bởi quyền bính hợp pháp theo khuôn mẫu chính thức, và nó có giá trị rộng rãi, hay ít nhất là đối với hàng giáo sĩ, theo các văn bản được đóng dấu.”[166]

2/ Mô hình công bố Tin Mừng hay sứ giả

Mô hình này có ý nghĩa đặc biệt trong Hiến chế Tín lý về Mặc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum và trong nhiều phần của Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo Ad Gentes. Theo mô hình này, Giáo Hội, đặt nền tảng trên truyền thống các Tông Đồ, được Đức Kitô sai đến với mọi dân tộc trên thế giới để trở nên “bí tích phổ quát của ơn cứu độ” giữa họ. Vì thế, Giáo Hội tiếp tục không ngừng sai các sứ giả đi công bố Tin Mừng và qua đó chuẩn bị cho người nghe đón nhận và tuyên xưng đức tin.[167] Đức Kitô hiện diện cách năng động trong Lời Người khi Thánh Kinh được đọc lên trong Giáo Hội và khi sứ điệp Thánh Kinh được công bố. Điểm tương tự cũng được đọc thấy trong Hiến chế về Phụng Vụ thánh.[168] Trong mô hình này, thừa tác vụ Lời Chúa được hướng tới những người ở bên ngoài Giáo Hội. Vì toàn thể Giáo Hội mang tính truyền giáo do chính bản chất của mình,[169] nên mọi tín hữu đã được rửa tội đều mang lấy sứ điệp Tin Mừng trên mình. Mặc dù bổn phận làm lan tỏa đức tin quả thực đè nặng trên vai các Giám mục là những người kế vị các Tông Đồ,[170] thì vẫn không một môn đệ nào của Đức Kitô được miễn khỏi trách nhiệm này.[171] Giáo dân, là những người chia sẻ chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô, có quyền và trách nhiệm phải cộng tác vào nhiệm vụ Phúc Âm Hóa.[172] Nội dung lời công bố của nhà truyền giáo là Tin Mừng về ơn cứu độ nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Ở đây, việc thông truyền Tin Mừng có thể sử dụng những phương thế khác nhau phục vụ cách đầy đủ cho người nghe liên quan đến việc hoán cải của họ. Như thế, người ta có thể nhận ra “rằng mình đã được giật ra khỏi tội lỗi và được dẫn đưa vào trong mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, Đấng gọi đã kêu gọi mình đi vào mối tương quan cá vị với Người trong Đức Kitô.”[173] Vì vậy, việc thông truyền Tin Mừng đặt cơ sở nhiều hơn trên các nhu cầu và chiều kích truyền thông của văn hóa. Sứ điệp Tin Mừng được thông truyền cách tự phát nhờ những người tín hữu chân chính. Sứ điệp ấy cũng có thể được tóm lược trong lời kinh Tin Kính ngắn gọn hay trong những công thức tuyên xưng có thể được ghi nhớ cách dễ dàng.

Mô hình truyền thông thứ nhất và thứ hai đòi hỏi những lời đáp trả khác nhau. Trong mô hình phẩm trật, lời đáp trả là “một sự vâng phục của lý trí đối với thẩm quyền đòi hỏi sự tôn trọng”; trong mô hình thứ hai, “lời đáp trả đối với việc rao giảng Tin Mừng là một sự gắn bó hiện sinh của toàn thể con người với tin vui cứu độ.”[174]

3/ Mô hình bí tích

Trong mô hình này, “truyền thông tôn giáo xảy ra không chỉ nhờ những lời nói mà còn một cách tương tự nhờ những con người và các sự kiện.”[175] Bản thân Đức Kitô cũng được xem như là biểu tượng mặc khải tối hậu, Hình Ảnh sống động làm cho Thiên Chúa nên hữu hình cách nào đó. “Đức Kitô truyền thông không chỉ qua điều Người nói mà thậm chí còn nhiều hơn nữa qua điều Người là và làm.”[176] Qua sự truyền thông của mình, Giáo Hội sẽ biểu lộ chính mình như một dấu chỉ hữu hiệu hay bí tích, trong đó Đức Kitô không chỉ được tỏ bày mà còn tiếp tục hiện diện và hoạt động cho ơn cứu độ trần gian.[177] Kiểu truyền thông này bao hàm mọi kiểu truyền thông không lời, mang tính biểu tượng, và nhất là dấu chỉ hữu hình của chứng tá đời sống. Trong Phụng Vụ, “những dấu chỉ thánh tạo nên tác động cứu độ của chúng nhờ quyền năng của Đức Kitô.”[178]

4/ Mô hình cộng đoàn hay hiệp thông

Giáo Hội trong mô hình này được xem như cộng đoàn huynh đệ của đời sống, đức ái, và chân lý được làm cho sống động bởi Chúa Thánh Thần.[179] Biểu hiện rõ ràng nhất của điều này có thể được tìm thấy trong chương II của Hiến chế về Giáo Hội với tựa đề “Dân Thiên Chúa.” Dựa trên khái niệm-koinonia trong Giáo Hội học của Pauline, Giáo Hội được mô tả như một cộng đoàn mang tính truyền thông và hữu cơ với Đức Kitô là Đầu.[180] Giáo Hội bao gồm nhiều hạng người, với những khả năng và đặc sủng phân biệt của họ, làm việc cùng nhau để xây dựng toàn thân trong tình yêu.[181] Mô hình này cũng ủng hộ chứng tá chung và sự đối thoại liên quan đến việc gặp gỡ các Kitô hữu khác.

5/ Mô hình đối thoại-trần thế

Mô hình này chủ yếu đặt cơ sở trên giáo huấn của Công đồng Vatican II về Giáo Hội trong thế giới hiện đại Gaudium et Spes. Trong mô hình này, thế giới không Kitô giáo được nhìn nhận không đơn giản chỉ “như là chất liệu thô để cho Giáo Hội làm biến đổi tới những mục đích của riêng nó, cũng không như là một đối tượng đơn thuần của nhiệt tâm truyền giáo, nhưng như một địa hạt mà trong đó ý định sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa hoạt động cách huyền nhiệm.”[182] Ở đây, sự truyền thông của Giáo Hội được mô tả như cuộc đối thoại với các nền văn hóa và thế giới các tôn giáo. “Trong cuộc đối thoại như thế, Giáo Hội có thể hy vọng nắm lấy cũng như trao ban, học hỏi cũng như dạy dỗ” để đạt đến tính phổ quát của các giá trị nhân bản và tôn giáo đích thực.[183] Thêm vào đó, sự đối thoại của Giáo Hội cũng được thích ứng với các ý thức hệ trần thế khác vốn đã trở nên rõ ràng và có thể nhận thức được trong một thế giới truyền thông đang phát triển mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II sau đó đã gọi là “Công Hội Viện (Hội đồng Areopagus) đầu tiên của thời hiện đại.”[184] Theo lối tiếp cận này, Giáo Hội cần phải giải thích được các dấu chỉ thời đại[185] và đây là một nhiệm vụ dành cho toàn thể Dân Thiên Chúa, các mục tử và người giáo dân.[186] Trong tiến trình này, những vai trò đặc biệt của giáo dân là không thể thay thế được.[187] Trong việc truyền thông với các thể chế con người khác, Giáo Hội nhìn nhận “mọi yếu tố chân thật, thiện hảo và chính trực” được tìm thấy trong các thế chế ấy.[188] Giáo Hội cũng cho thấy sự sẵn sàng và cởi mở của mình đối với lợi ích từ những tiến bộ này.[189]

Năm mô hình được Dulles phác thảo cách tỉ mỉ mô tả những lối tiếp cận đối với truyền thông của Giáo Hội. Những xếp đặt này dường như được định hướng về mặt cấu trúc: truyền thông trong Giáo Hội như là thể chế, như là quyền bính, truyền thông của Giáo Hội như là tổ chức hướng tới những người ở bên ngoài, truyền thông bên trong Giáo Hội như là cộng đoàn, liên lạc với các Kitô hữu khác, truyền thông của Giáo Hội như là một cộng đồng tôn giáo đối với các nền văn hóa và tôn giáo khác, và truyền thông của Giáo Hội như là một thể chế bên trong xã hội con người.

Nếu khái niệm-koinonia và ba chiều kích truyền thông căn bản của Giáo Hội biểu lộ đặc tính sâu xa của truyền thông Giáo Hội, thì năm mô hình truyền thông của Giáo Hội, được phát triển bởi Dulles, đưa ra một cấu trúc rõ ràng của sự truyền thông trong hiện hữu của Giáo Hội. Nói cách khác, khi năm mô hình truyền thông của Giáo Hội diễn tả hình ảnh rõ ràng về Giáo Hội như là truyền thông và phương thức các hoạt động mang tính truyền thông của Giáo Hội, khái niệm-koinonia/hiệp thông cho thấy tinh thần hay linh hồn của sự truyền thông như thế. Cách thức làm sao mà Giáo Hội hội truyền thông và những công cụ nào mà Giáo Hội có thể sử dụng cho việc truyền thông có thể được xem như là nghệ thuật làm thế nào đầu óc suy nghĩ và hướng dẫn việc giao tiếp, và như là nghệ thuật làm thế nào Giáo Hội vươn tay ra và bước tới với mọi người qua việc sử dụng những công cụ ấy, nhưng “thực tại mang tính truyền thông mới” được hình thành bởi sự truyền thông của Ba Ngôi mới là trái tim của tất cả những cố gắng này. Đó chính là linh hồn của mọi nỗ lực truyền thông của Giáo Hội. Vì vậy, Giáo Hội cần phải ý thức về bản chất cốt yếu của mình. Giáo Hội là một cộng đoàn truyền thông, được ban tràn và làm cho sống động bằng Thánh Thần của Đức Giêsu Kitô. Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong Đức Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần phải là nguyên lý hướng dẫn cho truyền thông của Giáo Hội. Nói cách khác, sự truyền thông của Thiên Chúa nhào nặn nên ý thức của Giáo Hội về đặc tính truyền thông của mình. Nó xây dựng Giáo Hội nên một thực thể mang tính truyền thông, hữu hình và xác thực qua những hoạt động truyền thông của mình, nhờ đó con người có thể cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa giữa cuộc sống con người. Dựa trên ý thức này, Giáo Hội có thể và phải tạo lập thiên hướng của chính mình trong sự truyền thông cùng và với người khác. Như thế, Giáo Hội có thể biết được những cách thức nào và những phương tiện nào mà mình có thể sử dụng cho việc truyền thông.

6.5 Những hàm ý thần học dành cho truyền thông xã hội

Dựa theo phân tích trên đây, Giáo Hội là một cộng đoàn có tính truyền thông được đặt nền tảng trên một mầu nhiệm về truyền thông: truyền thông sự sống của Ba Ngôi nhờ đời sồng nhập thể của Đức Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu Kitô trong tư cách “Đấng truyền thông hoàn hảo” là sự tự thể hiện ra ngoài của Thiên Chúa Cha. Với tư cách là Ngôi Lời Thiên Chúa, Đức Giêsu truyền thông nhờ sự hiện diện thể lý của Người, qua việc giảng dạy và chữa bệnh của Người, và đặc biệt qua các biến cố tột đỉnh của cái chết và sự phục sinh của Người. Qua sự nhập thể, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, con người gặp được Tin Mừng về sự viếng thăm cứu độ, về cuộc khổ nạn và sự siêu tôn tới vinh quang Thiên Chúa của Người. Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Đức Kitô, là tác nhân truyền thông hợp nhất Thiên Chúa, Đức Kitô với con người và liên kết con người lại với nhau. Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình, được phản chiếu trong toàn bộ lịch sử cứu độ và đặc biệt trong sự Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô, là thực tại căn bản của sự hiện hữu của Giáo Hội trong tư thế là một đời sống hiệp thông và có tính truyền thông

Thần học căn bản, như Jürgen Werbick khẳng định, phải suy tư theo quan điểm này. Việc ấy sẽ giúp khám phá ra thực tại căn bản của việc Thiên Chúa truyền thông, sự truyền thông vốn xây dựng nên nền tảng cho sự truyền thông của Giáo Hội. Loại suy tư thần học này biểu lộ tinh thần của truyền thông Kitô giáo bước theo sự truyền thông của Thiên Chúa. Từ quan điểm Giáo Hội học, ta cần phải đón lấy những hệ quả để hội nhập truyền thông vào trong mọi hoạt động bên trong đời sống Giáo Hội.

Dựa trên niềm tin vào tình yêu Ba Ngôi, sống đức tin là hiện hữu trong truyền thông. Mọi việc tưởng niệm và mọi tiến trình canh tân của Giáo Hội một cách cốt yếu đều được xem như việc sinh động hóa và đào sâu việc Ba Ngôi tự thông ban chính mình. Giống như các ngôi vị chí thánh trong Ba Ngôi thông truyền “chính mình,” mỗi ngôi theo những cách thức đặc thù của mình, để sống trong tình yêu và để trao ban tình yêu này cho con người, Giáo Hội cũng phải đi theo kiểu mẫu truyền thông này để thiết lập và làm cho hoàn hảo đời sống hiệp thông của mình.

  • Trên cơ sở đức tin Kitô giáo và nhờ đức tin này, sự truyền thông diễn ra như thế nào?

  • Làm thế nào Giáo Hội “hoạt động” bên trong nhân loại với những thách đố truyền thông của nó và đạt được những lợi ích từ những thách đố ấy?

  • Làm thế nào nhân loại có thể trở nên phong phú nhờ sự truyền thông của Giáo Hội?

Đây không đơn thuần chỉ là những câu hỏi về các vấn đề kỹ thuật, nhưng chúng liên quan đến bản chất của Kitô giáo và của Giáo Hội.

“Giáo Hội Kitô là cộng đoàn do bởi sự truyền thông sứ điệp của Đức Kitô ra bên ngoài và bởi ân huệ bên trong của tình yêu Thiên Chúa tạo nên.”[190] Theo cách nhìn này, Giáo Hội đúng là một thực tại mang tính truyền thông hơn là một thể chế. Giáo Hội không hiện hữu cho chính mình, nhưng sống trong hướng nhìn về truyền thông và hiệp thông. Qua đời sống mình, Giáo Hội tạo nên một “văn hóa truyền thông mới” vì nhân loại. Nói cách khác, hiện hữu Giáo Hội là hiện hữu trong truyền thông vì hiệp thông. Tính đa dạng phong phú của việc Thiên Chúa truyền thông qua Đức Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần hàm ý rằng Giáo Hội cũng có thể lợi dụng mọi khả thể truyền thông sẵn có trong một nền văn hóa nhất định. Bởi vậy, nếu người ta suy tư về cấp độ các nền thần học thực hành, họ cũng quan tâm đến cách thức làm thế nào để truyền thông hiệu quả sứ điệp của Đức Kitô.

Đối diện với hiện trạng truyền thông trên thế giới hiện nay, Giáo Hội cần phải tự chuẩn bị để bước vào những thay đổi đa dạng của truyền thông. Về điểm này, một số cách tiếp cận cơ bản được đề nghị bởi Klaus Hemmerle:[191]

  • Giáo Hội cần phải ý thức về những dạng thức truyền thông khác nhau được tạo ra bởi các phương tiện truyền thông hiện nay. Sứ điệp, chứng từ Kitô giáo, lối sống Kitô giáo, các hoạt động của Kitô giáo cần phải có khả năng thể hiện mình qua các phương tiện truyền thông. Chúng cần phải được truyền thông theo cách mà người ta có thể hiểu được chúng. Các thừa tác viên truyền thông của Giáo Hội cần phải tự thích ứng với tính đa dạng của các khả thể truyền thông hiện nay. Những dạng thức truyền thông khác nhau cần phải đóng góp vào sự phong phú của tính đa dạng tạo nên một cộng đoàn mang tính truyền thông hấp dẫn hơn.

  • Sứ điệp Kitô giáo và những hình thức công bố sứ điệp ấy không thể chỉ dựa trên những công cụ kỹ thuật. Dựa theo sự truyền thông của Ba Ngôi, mọi cách thức và phương tiện truyền thông phải cho phép, nâng đỡ và cuối cùng dẫn tới một cuộc gặp gỡ giữa các ngôi vị. Truyền thông của Thiên Chúa tạo nên và cho phép sự truyền thông liên vị: một gặp gỡ giữa mọi người.

  • Giữa những khả thể và cơ hội truyền thông, một người cũng cần có quyền và môi trường cho sự không-truyền thông. Người ấy không thể bị cưỡng ép phải hoàn toàn truyền thông, hoặc như là chủ thể hoặc như là đối tượng. Người ta cần phải đánh giá đúng năng lực sáng tạo của sự thinh lặng và trầm tĩnh.

  • Từ cách nhìn này, Giáo Hội tương lại đang đối diện với nhiệm vụ phải làm cho truyền thông nên dễ dàng và làm cho chính mình có đủ tư cách là người truyền thông trên mọi cấp độ: hợp pháp hóa truyền thông trong các gia đình, tạo những cơ hội gặp gỡ trong các cộng đoàn giáo xứ hay thúc đẩy mọi kiểu hình gặp gỡ dẫn tới sự truyền thông tốt đẹp và đúng đắn hơn. Về điều này, Giáo Hội cần phải biết cách sử dụng đúng đắn những phương thế, kiểu loại, cũng như các phương tiện truyền thông khác nhau trong những hoạt động truyền thông của mình.

  • Điều thiết yếu là phải có một tinh thần cởi mở và sự tôn trọng lẫn nhau trong việc thông truyền đức tin cho các nền văn hóa và các tôn giáo khác.

Ở điểm này, Hemmerle cảm thấy rằng Giáo Hội cần có một nền thần học truyền thông cho thời đại chúng ta. Chúng ta làm điều này không chỉ vì để tự thích ứng với thời đại này. Mà, đúng hơn, chúng ta làm như vậy để làm sáng lên cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng và đào sâu đức tin.[192] Mối quan tâm của Hemmerle là vấn đề làm thế nào để nhìn vào và hiểu được bối cảnh của thế giới chúng ta, cái bối cảnh vốn gây ảnh hưởng lên xã hội và sự truyền thông của Giáo Hội. Tuy nhiên, điều này chỉ là một phần của bức tranh lớn. Thần học truyền thông đi sâu hơn và vượt quá điều này. Những vấn đề căn bản về truyền thông xã hội, những người liên quan, sứ điệp Tin Mừng, các kênh dẫn truyền, những tình huống xã hội và văn hóa, đều được suy xét dưới nhãn quan về truyền thông Kitô giáo.

Thần học truyền thông phát triển khái niệm này, dựa trên việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong lịch sử cứu độ. Theo khái niệm này, toàn thể thần học phải được nhìn dưới quan điểm của truyền thông. Quan điểm này xem xét những chiều kích truyền thông của Thiên Chúa trong đời sống của Ba Ngôi, trong mặc khải thánh, trong sự Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô, cuối cùng trong toàn bộ lịch sử cứu độ giữa Thiên Chúa và con người. Trong tiến trình truyền thông của mình, Thiên Chúa, qua sự gặp gỡ với con người, biểu lộ chính mình nhờ những biểu tượng khả giác, có tính xã hội và được chuyển thông về mặt lịch sử. Việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình có một chiều kích xã hội và biểu tượng, nhưng nhìn chung nó cố gắng vươn tới con người, nó nhắm mục tiêu cải thiện con người và cuộc sống của con người, và cuối cùng làm tròn đầy cuộc sống ấy: con người sẽ trở nên một phần trong đời sống Ba Ngôi. Vì vậy, nó diễn ra từ người này đến người khác, vì con người. Đức Giêsu Kitô là mô mẫu tuyệt vời cho kiểu truyền thông này. Thần học truyền thông không bàn đến toàn thể phạm vi của công trình cứu độ của Thiên Chúa, nhưng suy tư một cách cụ thể về những phương thế mà Thiên Chúa trong tính cách truyền thông chia sẻ công trình ấy với chúng ta. Từ đây, Giáo Hội có được sự sáng suốt về thần học và mục vụ liên quan đến việc truyền thông của chính mình. Như một hệ quả, Giáo Hội có thể đặt ra những nguyên tắc cho việc truyền thông.

6.5 Những chiều kích truyền thông xa hơn của Giáo Hội

Khẳng định của Vatican II trong Gaudium et Spes từ tháng 12 năm 1965 về hoàn cảnh của của Giáo Hội trong thế giới hiện đại vẫn thích hợp cho con người ngày hôm nay. Điều gọi là thế giới hiện đại được đặc trưng bởi “những đổi thay sâu xa và mau chóng đang dần dần lan rộng tới toàn thể hoàn cầu.” Mặc dù con người đã tạo nên thế giới hiện đại bằng trí thông minh và những năng lực sáng tạo của mình, tuy nhiên, “những thay đổi này đang trở lại ảnh hưởng trên chính con người, trên những phán đoán và ước vọng cá nhân hay tập thể con người, trên cách suy tư và hành động đối với sự vật cũng như con người.” Hoàn cảnh này đưa tới “sự biến đổi đích thực về mặt xã hội cũng như văn hóa.”[193]

Tuy nhiên, giữa hoàn cảnh này, Giáo Hội nhận ra vai trò tích cực của truyền thông hiện đại trong sự phát triển của xã hội con người. Hướng dẫn mục vụ về các phương tiện truyền thông xã hội Communicatio et Progressio tuyên bố: “Các phương tiện truyền thông xã hội giúp con người sẻ chia hiểu biết của họ và thống nhất các hoạt động sáng tạo của họ… Truyền thông xã hội hướng tới những tiếp xúc đa chiều và đào sâu ý thức xã hội. Kết quả là cá nhân được nối kết một cách gần gũi hơn lại với bạn hữu của mình và có thể dự phần mình vào việc trải rộng lịch sử ra như thể được hướng dẫn bởi bàn tay Thiên Chúa… Các phương tiện truyền thông xã hội có thể đóng góp rất nhiều cho sự hiệp nhất của nhân loại.”[194]

Đồng thời, Giáo Hội nhận thấy rằng các công nghệ hiện đại cũng đưa đến những thay đổi về các dạng thức truyền thông xã hội. Trên thực tế, những mẫu thức mới của truyền thông xã hội đã nổi lên. Theo Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, “sự phát triển mau lẹ của công nghệ trong lĩnh vực phương tiện truyền thông đại chúng chắc chắn là một trong những dấu hiệu của sự tiến bộ trong xã hội hiện nay… Chúng đã mở ra những đại lộ mới cho sự truyền thông dễ dàng mọi loại tin tức, tư tưởng và định hướng.”[195] Cũng Đức Giáo Hoàng đã phát biểu vào năm 1990 rằng “Công Hội Viện (Hội đồng Areopagus) đầu tiên của thời hiện đại là thế giới truyền thông đang hợp nhất nhân loại lại và biến nó thành điều được biết đến như là ‘ngôi làng toàn cầu.’ Các phương tiện truyền thông xã hội đã trở nên quan trọng đến nỗi thay thế cho nhiều phương tiện thông tin và giáo dục, đào tạo và truyền cảm hứng chính yếu trong cách cư xử của con người với tư cách những cá nhân, gia đình và bên trong xã hội nói chung. Đặc biệt, thế hệ trẻ đang trưởng thành lên trong một thế giới bị điều kiện hóa bởi các phương tiện truyền thông đại chúng.”[196]

Khi sự (tái) Phúc Âm hóa trong thế giới hiện đại được nhìn như một kiểu truyền thông Kitô giáo đặc thù, thì, theo những lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, điều rất quan trọng là phải “hội nhập sứ điệp ấy vào trong ‘nền văn hóa mới’ được tạo nên bởi các phương tiện truyền thông hiện đại.” Đây là một thách đố dành cho truyền thông của Giáo Hội vì có “những cách truyền thông mới, với những ngôn ngữ mới, công nghệ mới và tâm lý học mới.”[197] Vì vậy, hoàn cảnh mới đòi hỏi những phương pháp mới trong việc truyền thông của Giáo Hội. Sứ điệp Kitô giáo, điều mà Giáo Hội đã lãnh nhận thông qua việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình, một cách đặc biệt qua việc Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô, và trong Chúa Thánh Thần, vẫn nguyên vẹn từ thế hệ này đến thế hệ kia, nhưng trong việc truyền thông sứ điệp Kitô giáo, thừa tác viên truyền thông của Giáo Hội cần phải biết sứ điệp ấy được truyền thông cho ai, trong hoàn cảnh nào thì việc truyền thông này diễn ra, và những công cụ truyền thông nào là phù hợp nhất với bối cảnh tương ứng. Ở đây, thừa tác viên truyền thông của Giáo Hội cần cắm rễ sâu trong nguồn mạch/nguồn thông tin của chính mình. Đồng thời, người ấy cần phải cởi mở và sẵn sàng để học hỏi từ người khác. Cần phải có một linh đạo truyền thông và tri thức có tính liên ngành. Trong sự truyền thông mang tính đối thoại này, Giáo Hội trao tặng những kho tàng quý giá của mình, đến từ đức tin, và đồng thời đón nhận những điều thiện hảo, đến từ tri thức và hiểu biết của xã hội loài người, trong đó Thiên Chúa cũng

hiện diện.

Giáo Hội đã bày tỏ thái độ tích cực đối với tình huống truyền thông xã hội mới trong một số văn kiện như Thông điệp Miranda Prorsus của Đức Giáo Hoàng Piô XII (1957), Sắc lệnh Inter Mirifica của Công đồng Vatican II (1963), Hướng dẫn mục vụ Communio et Progressio (1970), Hướng dẫn mục vụ Aetatis Novae (1992), Tông thư Rapid Development (2005) và nhiều sứ điệp về ngày thế giới truyền thông. Đặc biệt, Hướng dẫn mục vụ Communio et Progressio, sau khi đưa ra một số nền tảng thần học cho truyền thông xã hội, giải thích rõ ràng những hàm ý quan trọng. Thế giới đương thời được xem như “một chiếc bàn tròn lớn” mà ở đó một cộng đồng toàn cầu đang được hình thành nhờ một sự trao đổi thông tin và hợp tác. “Sự trao đổi qua lại này tạo nên những điều kiện thích hợp cho sự hiểu biết hỗ tương và thông cảm đưa tới một tiến trình chung.”[198] Được gợi hứng bởi việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình, “các tác viên truyền thông thổi sức sống vào cuộc đối thoại diễn ra bên trong gia đình nhân loại. Chính họ là những người chỉ huy trong khi sự trao đổi tiếp diễn quanh “chiếc bàn tròn” rộng lớn mà các phương tiện truyền thông đã tạo nên. Ơn gọi của họ thật là cao thượng để thúc đẩy mục đích của truyền thông xã hội.”[199] Tiên vàn, mục tiêu của truyền thông xã hội/truyền thông của con người là thiện ích chung của nhân loại. Giáo Hội, được dẫn dắt bởi Thánh Thần của Đức Kitô, hòa mình vào trong sự truyền thông này và chia sẻ với con người tầm nhìn của mình: hiệp thông. Tương tự, qua việc tham dự vào cuộc đối thoại chung này, các tôn giáo khác nhau có thể hướng về một gia đình chung dưới sự che chở của Thiên Chúa Duy Nhất Hằng Hữu, Cha của mọi người.[200]

Sự cải thiện đời sống và xã hội con người trở nên rõ ràng qua việc phục vụ của Giáo Hội bởi Giáo Hội nhắm đến những nhu cầu của con người hôm nay trong nhiều khía cạnh: những ước vọng của họ, những vấn nạn của họ, sự bất công của con người v.v… Vì mục đích này mà truyền thông xã hội hiện đại có thể khuyến khích Giáo Hội đi đến với con người và hiện diện cách hữu hiệu giữa con người.[201]

Tuy nhiên, trong tất cả các hoạt động mang tính truyền thông của Giáo Hội, việc đào tạo và tự rèn luyện được đòi hỏi để những lợi ích tiềm ẩn của các phương tiện truyền thông mới có thể được nhận ra và các mối hiểm nguy của đam mê mù quáng, của khuynh hướng chạy trốn thực tại và của sự bóc lột bị ngăn ngừa.[202]

Đối diện với thách đố lớn của truyền thông xã hội trong thế giới đương đại, Giáo Hội nhận thấy cần phải có sự nghiên cứu xa hơn nhằm đào sâu “những tác động của các phương tiện truyền thông xã hội trên các môi trường văn hóa khác nhau và trên những hạng người khác nhau.” Những nghiên cứu toàn diện và liên ngành về truyền thông xã hội giúp các thừa tác viên truyền thông của Giáo Hội “hiểu được sự vận hành của các phương tiện truyền thông xã hội bên trong gia đình nhân loại, và nắm bắt được cả đặc tính tiềm ẩn lẫn hiện lộ của chúng, đạt tới được một sự lượng giá tốt hơn về những tác động tâm lý và văn hóa đầy biến động của chúng.”[203] Theo Communio et Progreesio, Giáo Hội cần phải học hỏi và theo đuổi tri thức cùng những hiểu biết rút ra được từ sự nghiên cứu ấy. Bằng cách này, Giáo Hội có thể phục vụ cách hữu hiệu cho tiến trình truyền thông xã hội và sử dụng các phương tiện của nó cho lợi ích tốt nhất của con người.[204] Trong việc đối thoại với khoa học, Giáo Hội có thể khám phá ra tính hiệu quả của chính mình trong lĩnh vực truyền thông xã hội. Bởi vậy, Giáo Hội có thể “bố trí các nguồn tài nguyên của mình để đáp ứng được tầm quan trọng của những nhiệm vụ mà Giáo Hội đối diện trên khắp thế giới.”[205] Theo viễn tượng này, truyền thông của Giáo Hội có một chiều kích toàn diện. Giáo Hội cần phải đạt được tri thức, những hiểu biết và thông tin có tính khoa học về xã hội con người. Giáo Hội phải giải thích chúng dưới ánh sáng của Tin Mừng và cuối cùng trao tặng từ chính bản thân mình sứ điệp Tin Mừng nâng đỡ và cải thiện đời sống và xã hội loài người. Đây là một truyền thông tỉ mỉ chi tiết diễn ra giữa Giáo Hội và các chuyên gia: một tiến trình học hỏi lẫn nhau qua đó cả hai đối tác truyền thông sẽ được phong phú nhờ nhau.

Tình huống truyền thông xã hội hiện nay khá là khác biệt so với thời các văn kiện Giáo Hội được ban hành, các văn kiện mà ở đó Giáo Hội chính thức nhắm đến các vấn nạn và thách đố của truyền thông xã hội hiện đại. Hiện nay, chúng ta sống và bị ảnh hưởng bởi cái gọi là “cuộc cách mạng kỹ thuật số.” Những món đồ kỹ thuật số mới thật sự hấp dẫn. Bởi vì chúng mà truyền thông được dễ dàng hơn, có hiệu quả, song vẫn còn phức tạp. Tính phức tạp của truyền thông xã hội tự nó biểu lộ qua sự thay đổi các dạng thức văn hóa và xã hội trong truyền thông. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã nhắm đến hiện tượng này trong sứ điệp ngày thế giới truyền thông năm 2009 về các công nghệ mới:

Tính dễ truy cập của điện thoại di động và máy tính, được nối kết với tầm hoạt động và sự thâm nhập toàn cầu của Internet, đã mở ra một phạm vi các phương tiện truyền thông cho phép thông truyền gần như tức thời những ngôn từ và hình ảnh vượt qua những khoảng cách khổng lồ và đi đến những ngõ ngách tách biệt nhất trên thế giới; một điều không thể nào mường tượng được đối với những thế hệ trước đây. Những người trẻ, nói riêng, đã nắm bắt được khả năng to lớn của các phương tiện truyền thông mới để thúc đẩy sự nối kết, giao thiệp và hiểu biết giữa các cá nhân và cộng đồng, và họ đang hướng tới chúng như là những phương thế để giao tiếp với các bạn bè hiện có, để gặp gỡ thêm các bạn bè mới, để kiến tạo các cộng đồng và mạng lưới, để tìm kiếm thông tin và tin tức, và để chia sẻ những quan niệm và ý kiến của mình. Nhiều lợi ích bắt nguồn từ nền văn hóa truyền thông mới này: các gia đình có khả năng giữ liên lạc qua những khoảng cách xa; các sinh viên và nghiên cứu sinh có cơ hội tiếp cận các tài liệu, các nguồn thông tin và các khám phá khoa học cách trực tiếp và dễ dàng hơn, do đó họ có thể cùng nhau cộng tác làm việc từ những địa điểm khác nhau; hơn nữa, bản chất tương tác của nhiều phương tiện truyền thông mới tạo thuận lợi cho các phương thức học tập và truyền thông năng động hơn, qua đó góp phần vào sự tiến triển xã hội.[206]

Vấn đề không phải là làm thế nào để sử dụng những công nghệ mới trong bối cảnh này, nhưng mối quan tâm chính yếu của Giáo Hội nên là: Giáo Hội nên hiện diện như thế nào trong hoàn cảnh này? Thứ nhất, đây là một vấn đề về việc Giáo Hội tự ý thức về mình như là sự tiếp nối việc Thiên Chúa tự thông ban chính mình trong cái ở đây và bây giờ của thế giới; thứ hai, nó yêu cầu Giáo Hội phải xem xét và hiểu được căn tính của con người bị nhào nắn hay bị tác động bởi hoàn cảnh hiện đại; và thứ ba, nó đòi hỏi Giáo Hội mở rộng đôi mắt để khám phá và nhận ra “thế giới mới,” thế giới mà trong đó Giáo Hội chia sẻ sự sống với gia đình nhân loại như là tặng phẩm của một Thiên Chúa yêu thương và truyền thông. Nói về hiện tượng này cho các thùa tác viên truyền thông Đức, Paul Tighe[207] đã nhấn mạnh tính thích đáng của việc Giáo Hội hiện diện trong truyền thông xã hội “mới.” Vì vậy, điều cần thiết đối với Giáo Hội là bày tỏ sự cởi mở của mình, để học biết ngôn ngữ của “thế giới kỹ thuật số,” để vạch ra chi tiết các chiến lược đúng đắn, và quan trọng nhất, để luôn luôn ở trong sự truyền thông/hiệp thông với Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa, Đức

Giêsu Kitô.[208]


👉 (đọc tiếp chương tiếp theo tại đây)

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.