Ngôi Lời Nhập Thể: Đỉnh Cao Thiên Chúa Tự Truyền Thông
THE INCARNATION AND GOD’S SELF-COMMUNICATION
Mầu nhiệm Nhập Thể, với trung tâm là Ngôi Lời Thiên Chúa trở nên con người trong Chúa Giêsu, là đỉnh cao của việc Thiên Chúa tự truyền thông. Nhập Thể không chỉ là biến cố lịch sử mà còn là mục tiêu thần học của sáng tạo, thể hiện tình yêu và sự gần gũi vô hạn của Thiên Chúa với con người.
Con người, dù hữu hạn, lại mang trong mình khả năng vô hạn và luôn hướng về Thiên Chúa. Qua Nhập Thể, Thiên Chúa đồng hóa trọn vẹn với con người, để con người nhận ra chính mình trong sự kết hợp với Đấng vô biên.
Hơn nữa, Nhập Thể còn là sự tự hủy của Thiên Chúa, Ngài chia sẻ lịch sử và đời sống của chính mình cho con người. Qua đó, con người được mời gọi tham dự vào đời sống thần linh và lịch sử cứu độ
NGÔI LỜI NHẬP THỂ: ĐỈNH CAO THIÊN CHÚA TỰ TRUYỀN THÔNG
Lm. Tiến sĩ Charles Ndhlovu
Bài viết này thiết lập và nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa Nhập thể (Incarnation) và Thiên Chúa tự thông truyền.
Nhiều người cho rằng “công thức Chalcedon” (Chalcedonian formula) [1] về hai bản tính của Chúa Giêsu rất khó hiểu. Chính vì vậy, để diễn tả mầu nhiệm Chúa Kitô, Kitô học cổ điển đã sử dụng các khái niệm bản thể học hình thức, áp dụng cho mọi cấp độ thực tại, bao gồm bản tính, ngôi vị, sự hiệp nhất, bản thể... [2] Nhập thể là một mầu nhiệm, vừa là biến cố lịch sử có thật, vừa là mục tiêu bản thể học của sáng tạo, cho thấy mọi sự đều hướng đến biến cố này [3]. Nói cách khác, Nhập thể là một thực tại vừa mang tính lịch sử cụ thể, vừa mang chiều sâu thần học, cho thấy sự kết nối giữa Thiên Chúa và tạo vật. Khái niệm Nhập thể này rất khó hiểu vì nó thể hiện thực tại bí ẩn của Chúa Kitô là “độc nhất vô nhị về bản chất và không thể bắt nguồn từ bất cứ điều gì khác, đó là một Mầu nhiệm […].” [4]
Lời mở đầu của Phúc âm Gioan đã khẳng định: Ngôi Lời của Thiên Chúa đã trở nên xác thịt và một trong ba Ngôi của Thiên Chúa đã trở nên con người. Tuy nhiên, để hiểu thấu đáo lời khẳng định này, chúng ta cần đào sâu hơn vào ý nghĩa của việc “Ngôi Lời của Thiên Chúa trở nên con người". [5] Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã muốn đến gần với tạo vật nhất có thể, và Ngài đã thực hiện điều đó qua Nhập Thể, tự đồng hóa mình với con người một cách trọn vẹn […].” [6]
Vậy, nói rằng Thiên Chúa đã trở nên con người thì có nghĩa là gì? Trước hết, chúng ta cần hiểu "con người" là gì. Con người là một thực tại chúng ta vẫn gặp gỡ hằng ngày. Tuy nhiên, con người, với ý thức về bản thân, là một thực tại phong phú đến mức không thể định nghĩa trọn vẹn. Chúng ta có thể định nghĩa con người ở một mức độ nào đó, ví dụ, con người là một động vật lý trí (zoon logikon). Nhưng “chúng ta sẽ phải tự hỏi bản thân xem logikon thực sự có ý nghĩa gì. Và khi đào sâu vào đó, chúng ta sẽ đối diện với một thực tại vô biên. Vì chúng ta có thể nói con người là gì chỉ khi chúng ta nói con người phải làm gì với và điều gì liên quan đến con người.” [7]
Như vậy, con người, dù hữu hạn, lại mang trong mình những khả năng vô hạn, và luôn hướng về Thiên Chúa, Đấng vô biên. Con người chỉ có thể thấu hiểu hướng đi và bản chất của chính mình khi được chính Thiên Chúa, Đấng vốn dĩ siêu việt và bất khả tri, soi sáng và dẫn dắt. Có thể nói, con người là hữu thể mang trong mình khả năng vô hạn, luôn hướng về Thiên Chúa, Đấng vô biên. Con người là một hữu thể "nhận ra chính mình và tìm thấy chính mình bằng cách hoàn toàn tự hiến mình trong Thiên Chúa, Đấng bất khả tri” [8]. Chính vì thế, khi Thiên Chúa trở nên con người, Ngài đã tự hạ mình, đồng hóa với con người đến mức trọn vẹn. [9] “Đây là cách nó xảy ra khi chúng ta nói rằng chính Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa đã mang lấy bản tính con người. Nhìn từ góc độ này, Nhập thể của Thiên Chúa là trường hợp duy nhất và cao nhất về việc hiện thực hóa bản chất của thực tại con người” [10].
Một vấn đề khác được đặt ra là: Liệu Thiên Chúa có thể trở thành một cái gì đó hay không, đặc biệt là khi chúng ta xem xét rằng Thiên Chúa là hành động thuần túy, bất biến, giống nhau từ đời đời đến đời đời và có một sự viên mãn vô hạn về hữu thể? Tuy nhiên, bất chấp những cân nhắc này, kinh thánh cho chúng ta biết rằng Ngôi Lời đã trở nên xác thịt. Thần học và Triết học truyền thống thường tuyên bố rằng sự trở nên này chủ yếu là do phần được thừa nhận, chứ không phải do phần Ngôi Lời bất biến.[11] Nói cách khác, Ngôi Lời, vẫn giữ nguyên bản thể thần linh bất biến, đã mang lấy bản tính con người, và lịch sử của con người đã trở thành lịch sử của Ngôi Lời. [12] [13]
Để hiểu đúng về Nhập thể, chúng ta cần nhìn vào chính cuộc đời, cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Hơn nữa, chúng ta cần ý thức rằng biến cố và quá trình trở nên cũng là lịch sử của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trở nên con người không phải vì Ngài cần sự hoàn hảo hơn vì Ngài đã hoàn hảo rồi, mà bởi vì Ngài muốn chia sẻ chính mình cho con người. Để hiểu được bản thể học này, chúng ta cần đức tin. Vì vậy, “mầu nhiệm Nhập thể phải ở trong chính Thiên Chúa […].” [14] Có lẽ đó là lý do tại sao; Thiên Chúa trong kinh thánh được định nghĩa là Đấng tự hủy mình.[15]
Thiên Chúa không chỉ có khả năng tạo dựng mà còn có khả năng ban tặng chính mình. Sau khi trở nên con người, Thiên Chúa chia sẻ lịch sử của chính Ngài. Nhờ đó, tất cả các tạo vật đều có khả năng được Thiên Chúa tiếp nhận và hòa nhập vào đời sống của Thiên Chúa và lịch sử loài người của họ nhận được cảm hứng từ lịch sử cứu độ. “Thiên Chúa thiết lập các tạo vật bằng quyền năng sáng tạo của Ngài, trong chừng mực Ngài thiết lập chúng từ hư vô trong thực tại phi thần linh của chính chúng như là ngữ pháp của sự tự biểu hiện có thể có của Thiên Chúa.”[16] Ngữ pháp tự biểu hiện của Thiên Chúa này là Chúa Giêsu, Ngôi Lời, Verbum, đấng cứu độ tuyệt đối, biểu tượng hoàn hảo và sự viên mãn của việc Thiên Chúa tự thông truyền cho con người nam nữ.
Như vậy, giáo lý về Nhập Thể chính là điểm gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa. Để mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa được tiếp tục, Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo Hội với sứ mạng tiếp tục ra giảng lời loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa cho những ai đón nhận sự tự thông ban chính mình của Ngài trong ân sủng. Giáo Hội là sự tiếp nối của việc Thiên Chúa tự thông truyền chính mình trong lịch sử.
TRÍCH DẪN:
[1] Karl RAHNER, Current problems in Christology, trong Karl RAHNER, “Theological investigations, Volume 1: God, Christ, Mary and Grace,” New York, Crossroad publishing company, 1982, 180.
[2] Karl RAHNER, Current problems in Christology, 164.
[3] Karl RAHNER, Current problems in Christology, 165.
[4] Karl RAHNER, Current problems in Christology, 164.
[5] Karl RAHNER, Foundations of Christian faith, An introduction to the idea of Christianity, translated by William V. DYCH, London, Darton Longman and Todd, 1978, 215.
[6] Karl RAHNER, Current problems in Christology, 165.
[7] Karl RAHNER, Foundations of Christian faith, 216.
[8] Karl RAHNER, Foundations of Christian faith, 217.
[9] Karl RAHNER, Foundations of Christian faith, 218.
[10] Sđd.
[11] X. Karl RAHNER, Foundations of Christian faith, 220.
[12] Karl RAHNER, Current problems in Christology, 173.
[13] Karl RAHNER, Foundations of Christian faith, 220.
[14] Karl RAHNER, Foundations of Christian faith, 221.
[15] X. Karl RAHNER, Foundations of Christian faith, 222.
[16] Karl RAHNER, Foundations of Christian faith, 221.