CHỐI BỎ HAY CHẤP NHẬN SỰ TỰ TRUYỀN THÔNG CỦA THIÊN CHÚA TRONG ÂN SỦNG
CHỐI BỎ HAY CHẤP NHẬN SỰ TỰ TRUYỀN THÔNG CỦA THIÊN CHÚA TRONG ÂN SỦNG
Tác giả: Lm. Tiến sĩ Charles Ndhlovu (REJECTION AND ACCEPTANCE OF GOD’S SELF-COMMUNICATION IN GRACE)
Chuyển ngữ và bổ sung: Tu sĩ Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM
Tội lỗi chính là sự phản nghịch lại thánh ý của Thiên Chúa, Đấng hằng sống muôn đời. Nó là sự chối bỏ tình yêu bao la mà Ngài luôn muốn trao ban. Qua tình yêu đó, Ngài muốn ban tặng và truyền đạt chính mình ngày càng nhiều hơn, để chúng ta được tham dự, và ngày càng tham dự sâu xa hơn vào "bản tính thần linh" của Ngài. [1]
Khi phạm tội, con người đi ngược lại Thiên Chúa, chống lại chính bản tính tốt đẹp của mình và chối từ lời mời gọi bước vào đời sống ân sủng mà Thiên Chúa đã yêu thương trao ban. Tội lỗi cũng là một sự xúc phạm đến Giáo hội, là cộng đoàn hiệp thông thánh thiện. [2]
Theo nhãn quan giáo hội, tội lỗi còn mang ý nghĩa khi một người vấp ngã, họ không chỉ xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, mà còn đi ngược lại sứ mạng của chính mình và sự vâng phục tuyệt đối mà họ dành cho Ngài. Hành động ấy khiến chính Hội Thánh, ở một mức độ nào đó, cũng bị ảnh hưởng bởi tội lỗi. Kinh Thánh đã cho thấy rõ ràng khía cạnh giáo hội học này của tội lỗi... [3]
Chính nhờ Thiên Chúa tự truyền thông trong mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô mà tội lỗi chúng ta được tha thứ. Chúng ta không thể tự xá giải cho chính mình, bởi lẽ tội lỗi không phải là chuyện cá nhân. Nếu tội lỗi chỉ là vấn đề riêng tư, hẳn chúng ta đã có thể tự mình giải quyết. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay là con người đang dần mất đi ý thức về tội lỗi cũng như lòng khao khát được Thiên Chúa xót thương và tha thứ. Mặc dù vậy, “không thể phủ nhận rằng con người cần phải có trách nhiệm với hành động của mình, rằng họ phải giải thích cho những gì mình đã làm, và rằng trong cuộc sống, ai cũng sẽ có lúc phải đối diện với chính mình, với những gì mình nghĩ về bản thân.” [4]
Thế nhưng, chính những trải nghiệm vượt lên trên giới hạn bản thân đã giúp chúng ta nhận ra sự yếu đuối, giới hạn và cả những mâu thuẫn trong chính con người mình. Từ đó, thôi thúc chúng ta tìm đến và đón nhận Thiên Chúa cùng với sự tự truyền thông của Ngài. Chúng ta đứng trước những trăn trở, những lựa chọn khó khăn về việc mình là ai và mình nên sống như thế nào. Hơn thế nữa, chúng ta còn chứng kiến sự dữ, tội lỗi hiện diện ngày càng rõ ràng qua những bất hạnh, khổ đau của vô số người trên thế giới. Giờ đây, điều chúng ta cần làm là lắng nghe tiếng nói lương tâm để có thể nhận thức được những dấu chỉ thời đại. [5]
Giữa cảm giác tội lỗi và sự tha thứ dường như có một mối liên hệ mật thiết. Bởi lẽ, chỉ khi được thứ tha, ta mới thực sự nhận ra lỗi lầm mình đã gây ra. Cũng chính lúc ấy, ta mới thấu hiểu được sức hủy hoại của tội lỗi, và nhận ra rằng bản chất của nó chỉ là giả dối. Thực chất, “tội lỗi trở nên nghiêm trọng và sâu xa bởi vì nó diễn ra trước một Thiên Chúa đầy yêu thương và luôn muốn tự truyền thông chính Ngài cho con người. Và chỉ khi nào con người nhận thức được điều này, biến nó thành chân lý cho chính mình, thì họ mới có thể thấu hiểu hết được chiều sâu của tội lỗi.” [6]
Từ đây, ta có thể thấy rõ tự do và trách nhiệm là hai yếu tố quan trọng cấu thành nên sự tồn tại của con người. Thật vậy, "tự do lựa chọn (hay quyết định) là một "điều kiện cơ bản của con người [...]. [7] Tự do của con người không phải là thứ gì đó mơ hồ, không có thật. Nó không chỉ dừng lại ở việc con người được quyền lựa chọn điều mình muốn hay không muốn làm, mà sâu xa hơn, nó khẳng định con người là chủ thể tự do và có trách nhiệm với chính mình. "Trong tự do đích thực, con người luôn ý thức về bản thân, thấu hiểu và khẳng định chính mình." [8]
Luôn tồn tại cám dỗ trong việc hiểu tự do như khả năng con người tự quyết định về toàn bộ bản thân. Theo đó, tự do không còn là phạm trù sinh lý, sinh học, lịch sử hay thời gian bên ngoài, mà liên quan đến toàn bộ con người. Tuy nhiên, cách hiểu này dễ dẫn đến ngộ nhận tự do như một điều gì đó đã được định đoạt sẵn, tồn tại trước cả kinh nghiệm sống.
Thực chất, tự do được thực hành và chiêm nghiệm trong mối tương quan với chính bản thân mỗi người. Mục đích của tự do là giúp con người tự hiện thực hóa trong dòng chảy lịch sử. Con người tự do khi họ có thể thiết lập nên những điều cuối cùng, dứt khoát, từ đó nhận ra bản ngã bất biến của chính mình. Đó là khả năng lựa chọn điều gì là vĩnh cửu, không thể phai mờ, đạt được thông qua tự do siêu việt, nơi con người thấu hiểu điều gì là tối hậu.
[9] Tự do là "thái độ khẳng định hoặc phủ định đối với những điều tốt đẹp hữu hạn (hoặc được xem là hữu hạn) theo thứ tự được Thiên Chúa tạo dựng. Nhờ mối liên hệ tất yếu giữa tinh thần con người với Đấng Tuyệt Đối – nền tảng nâng đỡ tự do, tự do xét cho cùng là khả năng, vượt lên trên những giới hạn hữu hạn, để hướng về chính Thiên Chúa." [10]
"Có thể nói, tự do là khả năng kiến tạo nên điều gì đó cần thiết, trường tồn, một cái gì đó cuối cùng và dứt khoát. Nơi nào thiếu vắng tự do, ở đó chỉ còn lại sự tuần hoàn bất tận của sinh thành, biến đổi, để rồi cuối cùng bị lãng quên trong chính tiền đề và kết quả của nó. Tự do là sự kiện của một điều gì đó vĩnh cửu." [11]
Thêm vào đó, tự do là "sự tự hiện thực hóa của cá nhân, thông qua việc sử dụng vật chất hữu hạn, trước Thiên Chúa vô hạn. Vì vậy, tự do là một dữ kiện thuộc về thần học, thuộc về nhân học thần học. Bởi nếu không có tự do, con người không thể hiện diện trước Thiên Chúa như một chủ thể có trách nhiệm, trong mối tương quan đối thoại và cộng tác với Thiên Chúa; không có tự do, con người không thể là chủ thể của tội lỗi trước Thiên Chúa, cũng không thể là đối tượng của ơn cứu độ được ban tặng và được đón nhận." [12]
Nghĩa là con người, với tự do vốn có, có thể tự do đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa, bằng cách khẳng định hoặc phủ định. Chính trong tiến trình tự do này, con người xây dựng và hiện thực hóa bản thân qua những lựa chọn mỗi ngày. Tự do là một phần phẩm giá làm nên con người, và nếu hoàn toàn thiếu vắng tự do, con người sẽ bị tước đoạt phẩm giá của mình. Bởi vậy, việc đảm bảo không gian tự do trong các lĩnh vực của đời sống như kinh tế, văn hóa và đời sống cá nhân là điều vô cùng cần thiết. [13]
Do đó, việc tồn tại các tổ chức trong nhà nước và Giáo hội đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục cá nhân về việc sử dụng tự do một cách đúng đắn là điều vô cùng cần thiết. Bởi lẽ, nếu không được trang bị kiến thức và định hướng đúng đắn, chúng ta có thể bị những ảnh hưởng tiêu cực trong xã hội "lôi kéo một cách thụ động (ngay cả trước khi tự do của chúng ta được sử dụng) vào những hành vi thiếu tự do và trách nhiệm, hoặc chỉ mang tính tự do và trách nhiệm một cách hạn chế, và chính những điều này sẽ trở thành rào cản và giới hạn đối với khả năng tự do của chúng ta." [14]
Tự do vốn dĩ mang tính siêu việt. Tuy nhiên, tự do cũng có những biểu hiện cụ thể trong phạm trù hiện thực, nơi con người hành động và hình thành nên sự kiện tự do. Tự do siêu việt không đứng im lìm một chỗ mà luôn tìm cách biểu hiện ra trong tự do được cụ thể hóa qua đời sống thường ngày của mỗi người. Nói cách khác, đó là tự do được sống và trải nghiệm trong bối cảnh thế giới. [15]
Tự do con người là năng lực hướng đến những gì mang tính chất tối hậu và quyết định, và năng lực này được hiện thực hóa qua việc con người tự do "đồng ý" hoặc "từ chối" Thiên Chúa, nguồn cội của sự siêu việt. Giữa tự do hướng đến điều có giá trị trường tồn và tự do đón nhận hoặc khước từ Thiên Chúa có một mối liên hệ sâu sắc. Con người được tự do bởi vì họ được trao ban khả năng tiếp cận sự siêu việt tuyệt đối, và họ có thể đáp lại bằng "lời xin vâng" hoặc "lời khước từ."
Nếu không có Thiên Chúa, con người sẽ bị giam cầm trong chính bản thân mình, cả về mặt tuyệt đối lẫn bản chất, và như vậy, họ sẽ không có tự do. Tự do của con người được thể hiện trong lịch sử, và con người, trong tự do của mình, có thể chấp nhận hoặc từ chối lời mời gọi tham dự vào sự tự truyền thông của Thiên Chúa trong ân sủng. [16] Đó chính là mối liên hệ giữa tội lỗi, sự khước từ và sự đón nhận. Con người có tự do đón nhận lời mời gọi bước vào đời sống ân sủng của Thiên Chúa. Con người có tự do đón nhận sự tự truyền thông của Thiên Chúa, nhưng cũng có tự do khước từ điều đó. Thiên Chúa ban cho con người ân sủng để họ có thể đón nhận và lựa chọn một cách đúng đắn – đó chính là đón nhận sự tự truyền thông của Ngài.
---o0o---
Suy tư của dịch giả về vấn đề Tự Do, Tội Lỗi và Tiếng Gọi Đối Thoại Trong Bối Cảnh Truyền Thông Hiện Đại
Bài viết của Lm. Tiến sĩ Charles Ndhlovu như một lời chiêm nghiệm sâu sắc về mối tương quan giữa tự do, tội lỗi và hồng ân tự truyền thông của Thiên Chúa, đặt trong bối cảnh thế giới đang chìm ngập trong dòng chảy thông tin bất tận. Chính sự bùng nổ của truyền thông hiện đại đã tạo nên một thách thức mới, đồng thời cũng mở ra những cơ hội chưa từng có cho việc loan báo Tin Mừng và kết nối con người với Thiên Chúa.
Truyền thông, với khả năng kết nối và lan tỏa thông tin mạnh mẽ, có thể được ví như một con dao hai lưỡi. Một mặt, nó có thể trở thành phương tiện hữu hiệu để Thiên Chúa tự truyền thông với con người, đưa con người đến gần hơn với những giá trị đạo đức, thông điệp yêu thương và lòng thương xót của Ngài. Mặt khác, chính sự tự do trong môi trường truyền thông này lại tiềm ẩn những cám dỗ và nguy cơ đánh mất chính mình.
Biển Thông Tin và Cám Dỗ Chọn Lọc: Con người ngày nay đứng trước một "đại dương" thông tin khổng lồ. Sự quá tải thông tin, cùng với sự tràn lan của những nội dung lệch lạc, dễ khiến người ta rơi vào vòng xoáy của việc tiếp nhận thông tin một cách thụ động, thiếu phản biện, thậm chí đánh mất khả năng phân biệt đúng sai.
Văn Hóa Hưởng Thụ và Sự Khước Từ: Truyền thông, nếu không được sử dụng một cách đúng đắn, có thể trở thành công cụ để lan truyền lối sống vị kỷ, đề cao cá nhân, và chạy theo những giá trị ảo. Điều này dẫn đến sự xa rời thực tại, sự thờ ơ với tha nhân và đánh mất đi ý nghĩa đích thực của cuộc sống.
Mất Kết Nối và Lời Mời Gọi Đối Thoại: Lạm dụng truyền thông có thể tạo ra khoảng cách giữa con người với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa. Thay vì kết nối, truyền thông lại trở thành bức tường vô hình ngăn cách con người với thế giới thực.
Giữa những thách thức đó, bài viết cũng là lời kêu gọi Giáo Hội hãy chủ động hơn nữa trong việc sử dụng truyền thông như một phương tiện hiệu quả để loan báo Tin Mừng, giáo dục đức tin và kết nối cộng đồng. Giáo hội cần đồng hành, hướng dẫn và trang bị cho người trẻ, những người dễ bị ảnh hưởng bởi truyền thông, những kỹ năng cần thiết để sử dụng công nghệ một cách khôn ngoan và có trách nhiệm. Hơn nữa, truyền thông không chỉ là công cụ phát đi thông điệp mà còn là cầu nối để lắng nghe, thấu hiểu và đối thoại với thế giới.
Bài viết khép lại với lời mời gọi mỗi người hãy ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi khía cạnh của đời sống, kể cả trong thế giới ảo. Việc sử dụng tự do trong môi trường truyền thông một cách có trách nhiệm sẽ góp phần lan tỏa yêu thương, xây dựng một thế giới công bằng và nhân ái hơn, xứng hợp với hồng ân tự truyền thông của Thiên Chúa.
GHI CHÚ:
[1] Karl RAHNER, Forgotten truths concerning penance, trong Karl RAHNER, “Theological investigations, Volume 2: Man in the Church,” New York, Darton, Longman & Todd, 1963, 136.
[2] X. RAHNER, Forgotten truths concerning penance, 137.
[3] RAHNER, Forgotten truths concerning penance, 136-137.
[4] RAHNER, Foundations of Christian faith, 91.
[5] X. RAHNER, Foundations of Christian faith, 93.
[6] RAHNER, Foundations of Christian faith, 93.
[7] RAHNER, The dignity and freedom of man, 246.
[8] RAHNER, Foundations of Christian faith, 94.
[9] X. RAHNER, Foundations of Christian faith, 94-96.
[10] RAHNER, The dignity and freedom of man, 246.
[11] RAHNER, Foundations of Christian faith, 96.
[12] RAHNER, The dignity and freedom of man, 246-247.
[13] RAHNER, The dignity and freedom of man, 248-249.
[14] RAHNER, The dignity and freedom of man, 250-251.
[15] X. RAHNER, Foundations of Christian faith, 96-97.
[16] X. RAHNER, Foundations of Christian faith, 98.