BIỂU TƯỢNG - NỀN TẢNG CUỘC SỐNG
BIỂU TƯỢNG - NỀN TẢNG CUỘC SỐNG
Tác giả: Linh mục Tiến sĩ Charles Ndhlovu (SYMBOLS WE LIVE BY)
Chuyển ngữ và bổ sung tiêu đề: Tu sĩ Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM
I. Bản Thể Là Biểu Tượng
"Bản thể tự nó đã là biểu tượng, bởi lẽ nó nhất thiết phải 'thể hiện' chính nó." [1] Điều này đặc biệt đúng khi ta xét đến thực tế là bản thể tự hoàn thiện thông qua các dẫn xuất và sự đa dạng của nó. Tuy nhiên, để sự đa dạng này hoàn thiện bản thể, nó không được phép hỗn loạn. Nói cách khác, sự khác biệt của bản thể con và tính thống nhất của nó với nguồn cội phải tăng lên tương ứng. Nhờ đó, các khoảnh khắc đa dạng của bản thể vừa có thể khác biệt lại vừa nằm trong sự thống nhất và hòa hợp với bản thể nguyên thủy. Chính bản thể đã phân hóa, trở thành biểu tượng và thể hiện của chính bản thể/sự thống nhất nguyên sơ.
Chính vì lẽ đó, sự thể hiện của chúng ta về bản thể không chỉ thể hiện bản thể nguyên thủy mà còn thể hiện các khoảnh khắc đa dạng. Sự thể hiện ấy phải thể hiện rõ ràng rằng bản thể nguyên thủy là nguồn gốc của những khoảnh khắc đa dạng, đồng thời, chính những yếu tố đa dạng ấy lại là biểu hiện của bản thể nguyên thủy.
Vì vậy, khi nghiên cứu về sự truyền thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta thường nhấn mạnh đến việc chính bản thể nguyên thủy là nền tảng cho sự truyền thông của con người. Không thể nào nghĩ đến sự truyền thông của con người mà không nghĩ đến sự truyền thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa, bởi đó chính là nền tảng của nó. Sự truyền thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa, giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chính là nền tảng cho sự truyền thông của con người. Có thể nói, chính bởi vì Thiên Chúa là một Thiên Chúa của truyền thông mà chúng ta mới có khả năng truyền thông.
II. Tự Biểu Hiện và Tự Nhận Thức
Như chúng ta đã trình bày, mọi thực thể đều tự thể hiện chính nó và thông qua sự thể hiện đó, thực thể 'sở hữu chính nó'. Như vậy, "in tantum est ens cognoscens et cognitum, in quantum est ens actu" (Hữu thể tự nhận thức và được nhận thức trong chính hành vi hiện hữu của nó). Điều này có nghĩa là "hiện hữu với chính nó" chỉ là một cách diễn đạt khác của tính hiện thực, tức là "sự hiện thực hóa nội tại của bản thể", [2] hay nói một cách đơn giản hơn, bản thể tự nhận thức bản thân thông qua sự tự biểu hiện của chính nó. Điều này khả thi bởi vì bằng sự tự biểu hiện, thực thể tự nhận thức bản thân thông qua sự đồng nhất giữa dẫn xuất và nguồn gốc. Sự đồng nhất này dẫn đến sự hoàn thiện của sự thống nhất nguyên thủy. Do đó, thực thể càng tự biểu hiện bằng cách tạo ra sự đa dạng, thì nó càng tự nhận thức bản thân và tự hoàn thiện bản thân.[3]
Nguyên lý này đúng ngay cả ở cấp độ con người. Khi truyền thông nhiều hơn, người ta có thể hoàn thiện kỹ năng truyền thông. Bằng cách viết nhiều hơn, người ta hoàn thiện nghệ thuật viết. Bằng cách tương tác nhiều hơn, người ta có thể trở nên tốt hơn trong quá trình xã hội hóa và thậm chí bằng cách nói nhiều hơn, người ta càng tự hoàn thiện bản thân hơn.
Từ đó, ta có thể khẳng định rằng thực thể tự hoàn thiện bằng cách thể hiện bản thân nhiều hơn và cấu thành nên sự đa dạng. Tuy nhiên, cần thận trọng khi áp dụng điều này cho Thiên Chúa, vì Ngài vốn hoàn hảo tuyệt đối và không cần con người để trở nên hoàn hảo hơn. Dẫu vậy, bằng cách nhập thể, Thiên Chúa đã tự biểu hiện với con người để chúng ta có thể hiểu biết về Ngài nhiều hơn. Bởi vậy, ta có thể kết luận rằng sự truyền thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa, được truyền đến con người qua sự nhập thể, là một biểu hiện rõ ràng của Thiên Chúa - một Thiên Chúa tự biểu hiện và mặc khải chính mình cho con người.
III. Tính Biểu Tượng Của Thực Thể
Hơn nữa, ta có thể khẳng định rằng mọi thực thể về cơ bản đều mang tính biểu tượng bởi vì nó tự nhận thức bằng cách thể hiện bản thân. Và thông qua quá trình này, thực thể tự đến với chính nó, sở hữu chính nó, nhận thức chính nó, hoàn thiện chính nó, viên mãn chính nó và chiếm hữu chính nó.[4] Thực thể, tự trao ban "chính mình ra khỏi chính mình để đến với 'tha nhân'. Và ở đó, nó tìm thấy chính mình trong tri thức và tình yêu. Bởi vì chính bằng cách cấu thành 'tha nhân' nội tại mà nó đạt đến (hoặc: từ đó) sự tự viên mãn của chính mình, là tiền đề hoặc hành động hiện diện với chính mình trong tri thức và tình yêu."[5] Nói cách khác, bằng cách cấu thành chính mình thành một thực tại khác, thực thể nhận thức được chính nó. Và bằng cách nhận thức được chính nó, nó trở nên hoàn thiện hơn bởi vì việc tiếp thu tri thức là một hình thức của sự hoàn thiện. Bất kỳ điều gì cũng trở nên hoàn thiện hơn khi nó có tri thức về chính nó.
IV. Hai Cách Thể Hiện Tính Biểu Tượng
Thực thể mang tính biểu tượng theo hai cách.
Thứ nhất, tính biểu tượng thể hiện ở mối quan hệ thứ cấp giữa hai thực thể, đó là thực thể nguyên thủy và sự thể hiện phân hóa. Trong trường hợp này, tính biểu tượng là một thuộc tính nội tại của thực thể bởi vì thông qua đó, mọi thực thể tự nhận thức bản thân. Sự thể hiện phân hóa là biểu tượng của thực thể nguyên thủy và ngược lại, thực thể nguyên thủy được biểu tượng hóa bởi sự thể hiện phân hóa bởi vì thực thể nguyên thủy là nền tảng cho sự thể hiện phân hóa. Mối quan hệ này giống như nguyên nhân tạo ra kết quả tương tự, hay nói một cách đơn giản, giống như cha nào con nấy, mẹ nào con gái nấy.
Thứ hai, sự tương đồng này phần nào tạo nên nền tảng cho một sự truyền thông mang tính đại diện cho tính biểu tượng của thực thể. Thực thể là biểu tượng của nguyên thủy - nguyên thủy được biểu tượng hóa bởi sự thể hiện phân hóa hoặc bởi biểu tượng - và đây là cơ sở của truyền thông biểu tượng. Tuy nhiên, biểu tượng không thể hiện đầy đủ nguyên thủy bởi vì nó chỉ là một biểu tượng. Nói cách khác, nguyên thủy không thể được gói gọn hoàn toàn trong biểu tượng. Biểu tượng đại diện cho một phần nào đó của nguyên thủy, nhưng điều này chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định. Luôn có một phần nào đó của nguyên thủy mà biểu tượng không thể hiện hết. Và đây chính là sự hạn chế của tính biểu tượng - tính bất toàn của biểu tượng - đó là nó không nói lên tất cả về thực tại được biểu tượng hóa.
V. Chúa Giêsu - Biểu Tượng Hoàn Hảo
Xét về Chúa Giêsu, chúng ta có thể khẳng định rằng Ngài là biểu tượng hoàn hảo bởi vì Ngài hoàn toàn thể hiện Chúa Cha. Nơi nào có Chúa Cha, nơi đó có Chúa Con, và nơi nào có Chúa Con, nơi đó hiện diện Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đó là lý do tại sao chúng ta có thể nói rằng mức độ biểu tượng của Chúa Giêsu là hoàn hảo, trọn vẹn và tuyệt đối - Ngài là một ngôi vị trong Chúa Ba Ngôi - ba ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất.
Tuy nhiên, ngoài Chúa Giêsu, tất cả các biểu tượng khác đều không hoàn toàn hoàn hảo bởi vì chúng luôn thiếu sót trong khả năng đại diện của mình. Ví dụ, chim bồ câu là biểu tượng của Chúa Thánh Thần trong một số truyền thống tôn giáo. Nhưng biểu tượng này không hoàn toàn chính xác và không hoàn hảo. Chúng ta không thể nói rằng chim bồ câu hoàn toàn thể hiện Chúa Thánh Thần - nó chỉ là một biểu tượng. Chúng ta nhận thấy điều này chẳng hạn trong nhiều nhà thờ - nơi bục giảng được trang trí bằng hình ảnh chim bồ câu - đại diện cho Chúa Thánh Thần - nhưng thực tế đó không phải là Chúa Thánh Thần.
VI. Các Cấp Độ Biểu Tượng
Đó là lý do tại sao có nhiều cấp độ biểu tượng khác nhau. Một số biểu tượng quan trọng hơn bởi vì chúng gần với thực tại được biểu thị hơn so với các biểu tượng khác. "Do đó, bản thân khả năng nhận thức cũng có nhiều mức độ khác nhau. Khả năng nhận thức không có nghĩa là sự hiện hữu thụ động - […] của một bản chất tự thân với sự hiện hữu thụ động […] của một bản chất tự thân với khả năng bị nhận thức một cách thụ động bởi một thực thể khác (và do đó trong một số trường hợp nhất định cũng bởi chính nó), nếu thực thể khác này thành công trong việc lĩnh hội bản chất này bằng năng lực nhận thức của nó được cấu trúc theo một cách thức tương ứng."[6] Nói cách khác, quá trình nhận thức thông qua biểu tượng này không phụ thuộc vào khả năng, tiềm năng, quan hệ hoặc tính hiện thực của chủ thể nhận thức mà phụ thuộc vào khả năng nhận thức của thực thể. Nó cũng phụ thuộc vào mức độ hiện thực của thực thể mà chúng ta muốn nhận thức: ens est cognitum et cognoscibile, in quantum ipsum est actu, có nghĩa là thực thể được nhận thức và có khả năng nhận thức, trong chừng mực nó hiện hữu trong hành vi. [7]
Hơn nữa, thực thể có thể được nhận thức bởi vì ngay cả khi nó có thể tự cấu thành từ sự thể hiện phân hóa, nó luôn thể hiện sự thống nhất nguyên thủy của nó. Theo nghĩa này, thực thể tự thân nó mang tính biểu tượng. Nó tự biểu hiện thông qua sự thể hiện thứ yếu và phù hợp của nó, và khía cạnh thể hiện thứ yếu và phù hợp này là cấu thành của mọi thực thể. Chính thông qua sự thể hiện và tính thứ yếu này mà thực thể có thể được nhận thức thông qua sự thể hiện phân hóa của nó. Tuy nhiên, kiến thức này chỉ là bổ sung cho kiến thức bắt nguồn từ tính hiện thực và khả năng nhận thức của đối tượng. [8]
Chủ thể nhận thức có thể đã có sẵn một số hiểu biết về thực thể, nhờ vào biểu tượng, mà nếu không có nó thì thực thể không thể được nhận thức. Nói một cách đơn giản, chúng ta có thể nói rằng sự thể hiện phân hóa biểu hiện sự thống nhất nguyên thủy và khi làm như vậy, sự thống nhất nguyên thủy “trở về với chính nó” và đây là tự tri của thực thể. Và theo lời của các nhà triết học - một cuộc sống không được suy ngẫm thì không đáng sống!
VII. Khả Năng Được Nhận Thức Của Thực Thể
Tuy nhiên, thực thể đã sở hữu khả năng được nhận thức, và khả năng biểu đạt của thực thể chỉ là một yếu tố bổ sung cho nhận thức này. Thực thể không thể được nhận thức như một đối tượng của tri thức nếu không có khả năng tự thân để được nhận thức. "Thực thể được nhận thức trong biểu tượng này, mà nếu không có nó thì thực thể hoàn toàn không thể được nhận thức: do đó, nó là biểu tượng theo nghĩa nguyên thủy (siêu việt) của từ này."[9]
Thực thể có thể được nhận thức bởi vì nó có khả năng được nhận thức. Bản chất của thực thể là có thể được nhận thức, và điều này về cơ bản dựa trên tính tiên nghiệm và hậu nghiệm của thực thể. Tâm trí con người có thể nhận thức thực tại bởi vì thực tại có khả năng được nhận thức. Cấu trúc và thành phần của thực tại được tạo ra là để nó có thể kích thích tâm trí con người nhận thức nó. Mối quan hệ này giống như chìa khóa và ổ khóa. Ổ khóa được tạo ra để có thể chứa một chiếc chìa khóa, và một chiếc chìa khóa được tạo ra để có thể đi vào ổ khóa.
VIII. Quá Trình Trừu Tượng Hóa Tri Thức
Thực tại được cấu thành để có thể được tâm trí nhận thức, đặc biệt là thông qua quá trình trừu tượng hóa - hay còn được gọi là sự hình thành biểu tượng tinh thần (phantasma). Tâm trí con người có thể trừu tượng hóa tri thức từ thực tại và chuyển đổi nó thành một hình ảnh hoặc thực tại có thể nhận thức được. Trí tuệ cho phép tâm trí nhận thức thông qua việc đối chiếu biểu tượng tinh thần (phantasma) với thực tại để kiểm chứng. Quá trình nhận thức chính là hành trình từ thực tại đến trừu tượng hóa và sau đó là kiểm chứng bằng kinh nghiệm cảm tính.
IX. Biểu Tượng Trong Cuộc Sống Hàng Ngày
Sau khi đã đề cập đến tất cả những điều đó, chúng ta không nên quên rằng biểu tượng là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta sử dụng biểu tượng. Chúng ta hiểu biết thông qua biểu tượng. Thực tại (Reality) và hiện hữu (Being), tất cả đều được biểu đạt qua lăng kính biểu tượng. Con người ta, tựu trung, sống trong thế giới ý nghĩa do chính biểu tượng tạo nên!
GHI CHÚ:
[1] Karl RAHNER, The theology of the symbol, trong Karl RAHNER, “Theological investigations, Volume four, More recent writings,” in Karl RAHNER, London, Darton, Longman & Todd, 1974, 229.
[2] x. RAHNER, The theology of the symbol, 229-230.
[3] x. RAHNER, The theology of the symbol, 229-231.
[4] Rahner sử dụng những thuật ngữ này và nhiều thuật ngữ khác để mô tả sự viên mãn của hữu thể xảy ra khi một hữu thể phân hóa hoặc tự cấu thành nên tính đa dạng. x. RAHNER, The theology of the symbol, 221 - 223.
[5] RAHNER, The theology of the symbol, 230.
[6] Karl RAHNER, Spirit in the world, New York, Continuum publishing company, 1957, 73.
[7] x. RAHNER, The theology of the symbol, 230.
[8] x. RAHNER, The theology of the symbol, 230-231.
[9] Karl RAHNER, The theology of the symbol, 231.