BẢN THỂ VÀ THÔNG ĐIỆP: GÓC NHÌN TỪ BẢN THỂ LUẬN HIỆN SINH
Tác giả: Lm. Tiến sĩ Charles Ndhlovu (ORIGINAL, TRANSCENDENTAL AND HISTORICAL COMMUNICATION OF THE MESSAGE)
Chuyển ngữ: Tu sĩ Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM
Bài viết này đi sâu vào thực tế của việc truyền đạt sứ điệp mang tính nguyên thủy, siêu việt và lịch sử, đồng thời xem xét con người với vai trò là người tiếp nhận thông điệp.
Với vai trò là người tiếp nhận thông điệp, chúng ta đều hiểu rằng thông tin đóng vai trò then chốt trong truyền thông. Vậy, theo quan điểm của Kitô giáo, người nghe cần có tố chất gì để có thể lĩnh hội được chân lý thực sự và tối hậu của sứ điệp? Đây chính là câu hỏi đầu tiên cần được giải đáp, không phải theo góc độ đạo đức, mà là dưới lăng kính của bản thể luận hiện sinh. [1] Giả định được đặt ra là: giáo huấn của Kitô giáo kêu gọi tín hữu, với tư cách là người tiếp nhận, đối diện với sự thật về chính bản thể của mình. Con người không thể trốn tránh sự thật này, mà cần tìm đến và gặp gỡ mầu nhiệm vô biên của Thiên Chúa thông qua chính sự tự truyền đạt của Ngài. Có thể nói, chính sự thật về bản thể con người sẽ dẫn dắt họ. Từng bước một, con người sẽ được kêu gọi đến với sự bao la vô tận của mầu nhiệm Thiên Chúa. [2] Bản thể thiết yếu của con người, ở một mức độ nào đó, được hình thành theo dòng chảy lịch sử. Tuy nhiên, bản chất thiết yếu này cũng có thể được tiếp cận thông qua nội dung của thần học đã được mặc khải cho Kitô giáo. Nhờ đó, con người có thể thấu hiểu bản thể của chính mình – một bản thể mang tính lịch sử và thần học, và bởi vậy, là một thực tại không thể chối bỏ. [3]
Sau khi được mặc khải, chân lý vẫn luôn là chính nó, vẫn là "chân lý" theo nghĩa đích thực, nghĩa là nó phản ánh thực tại và luôn có giá trị ràng buộc. Những gì Giáo hội đã tiếp nhận như một phần Mặc khải được trao ban, như đối tượng của đức tin tuyệt đối, sẽ mãi mãi thuộc về Giáo hội. [4] Hơn nữa, chính định hướng lịch sử giúp chúng ta triết lý về con người. Vì thế, triết học cần soi rọi vào cội nguồn lịch sử của mình để xem liệu nó có còn bị ràng buộc bởi “nguồn gốc lịch sử và ân sủng như là những yếu tố xác đáng hay không, và liệu trải nghiệm tự thân của con người về những điều này ngày nay có còn giá trị và ràng buộc hay không. Trong khi đó, thần học giáo điều muốn cho con người biết họ là ai, và họ vẫn là gì ngay cả khi họ phủ nhận giáo huấn Kitô giáo trong sự vô tín. [5] Là những người đón nhận thông điệp, chúng ta phải lắng nghe và suy ngẫm về những chân lý này, bởi chính chân lý dẫn dắt sự tồn tại và cuộc đời chúng ta. Chân lý xác định bản thân chúng ta, hướng chúng ta đến với chân lý thực sự và hạnh phúc đích thực.
Như vậy, ta thấy thần học chứa đựng những yếu tố của nhân học triết học, và mối liên kết giữa hai lĩnh vực này đóng vai trò quan trọng giúp con người thấu hiểu sứ điệp về ân sủng một cách triết lý, hợp lý và có trách nhiệm.
Thần học không chỉ xem xét con người và hoàn cảnh của họ, mà còn đi sâu vào cách con người đón nhận thông tin, cũng như những tiền đề và điểm giao thoa giữa thông điệp và chính con người. Thần học dẫn dắt con người đến với câu hỏi về sự tự nhận thức: Liệu họ có thực sự hiểu chính mình, hay họ đang tự huyễn hoặc bản thân? Liệu trong trách nhiệm với bản thân và sự tồn tại của mình, họ có đủ can đảm để khẳng định niềm tin của mình, cho dù niềm tin đó có thể trái ngược với những gì Kitô giáo dạy bảo? [6]
Trên thực tế, một số nhà thần học đã mạnh dạn khẳng định: "Thần học chính là nhân học". Bởi, con người trong dòng chảy cuộc sống thường nhật, với những trải nghiệm về tri thức, tự do và lịch sử, đều âm thầm nhận thức về bản thân như một thực thể tinh thần, vượt lên trên thế giới kinh nghiệm trực quan. [7] Con người, với tư cách là chủ thể tiếp nhận thông tin, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự mặc khải và giúp chúng ta thấu hiểu hơn về Kitô giáo. Khi nhìn nhận con người như một ngôi vị, ta có thể khẳng định về mối quan hệ cá vị giữa Thiên Chúa và con người, về cuộc đối thoại giữa họ trong dòng lịch sử cứu độ, và về trách nhiệm của con người trước phán quyết của Thiên Chúa. [8] Hơn nữa, việc nhìn nhận con người như một ngôi vị và chủ thể còn là nền tảng cho những khẳng định khác, chẳng hạn như Thiên Chúa mặc khải chính Ngài cho con người qua lời nói, hay con người trò chuyện với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Những khẳng định này, dù còn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn, nhưng lại là một phần của thực tại Kitô giáo. Và chúng ta có thể từng bước khám phá chúng nếu hiểu rõ hơn về khái niệm "chủ thể" và "ngôi vị". Những khẳng định này càng trở nên rõ ràng hơn khi ta nghiên cứu về con người trong lĩnh vực nhân học, chẳng hạn như "sự siêu việt của con người, trách nhiệm và tự do, khuynh hướng hướng đến những điều bí ẩn, sự hiện hữu của con người trong lịch sử và thế giới, và bản chất xã hội". [9]
Tuy nhiên, vấn đề và rủi ro vẫn tồn tại trong sự ẩn giấu của trải nghiệm cá nhân, một trải nghiệm nguyên thủy và cơ bản về chính chủ thể của một người. Trải nghiệm như vậy là “trải nghiệm hoàn toàn không lời và không phản tư, nhưng nó cũng không phải là thứ có thể diễn tả bằng lời và được truyền thụ từ bên ngoài.” [10]
Hơn nữa, tồn tại vô số trải nghiệm thực tế, tuy không phải là một phần của con người, nhưng lại quyết định, kiến tạo, định hình và chi phối con người trong chính thực tại của họ. Thậm chí có thể nói rằng, chính những trải nghiệm thực tế này lý giải cho thực tại của con người. Các ngành khoa học nhân học và thực nghiệm đi sâu phân tích, bóc tách và từ đó, phác họa nên chân dung con người, bởi vì, ở một khía cạnh nào đó, con người chính là kết tinh từ dữ liệu và thực tại của họ, nhưng đó chưa phải là tất cả. Các ngành khoa học này đôi khi tìm cách giản lược con người thành “những nguyên nhân thực nghiệm có thể xác định, phân tích và cô lập. Phần lớn, các ngành khoa học này đều chính xác về phương pháp luận và kết quả nghiên cứu, và chính những trải nghiệm đau thương của mỗi cá nhân trong cuộc sống đã chứng minh cho nhận định ấy”. [11] Tuy nhiên, thực tại về con người vượt xa hơn những gì các ngành khoa học thực nghiệm có thể lý giải. Con người phức tạp hơn bất kỳ học thuyết nào. Con người là một bí ẩn và thông điệp, bằng cách nào đó, sẽ soi sáng phần nào bí ẩn ấy.
Khi đối diện với những trải nghiệm thực tế, con người có thể chối bỏ trách nhiệm cá nhân đối với chính mình. Họ có thể đổ lỗi cho quá khứ, cho thế giới xung quanh, cho những dữ kiện hình thành nên thực tại của họ. Họ có thể tự huyễn hoặc bản thân rằng mình được tạo nên không phải bởi chính hành động của mình, mà bởi người khác, bởi những trải nghiệm nằm ngoài bản thể của họ. “Và cái “khác” ấy, thứ mà từ đó họ được sinh ra, là một bản chất bất biến, phi cá nhân, bao gồm cả lịch sử, thứ mà họ cũng có thể hiểu như là tự nhiên. Lịch sử gửi gắm đến con người, với tư cách là những kẻ lắng nghe, vô vàn thông tin. Lịch sử kể cho con người nghe về những thăng trầm, những vinh quang và khổ đau của nhân loại. Đó là một thông điệp vô cùng quan trọng. Quan điểm của Kitô giáo không nhất thiết phải gò bó bản thân trong việc nhìn nhận những trải nghiệm thực tế chỉ đơn thuần là vật chất, là thể xác, hay là những thứ đối lập và tách biệt hoàn toàn với tinh thần và linh hồn. Sự phân định rạch ròi về mặt vật chất này không còn quá quan trọng khi ta nói về những trải nghiệm thực tế, về bản chất phi cá nhân, hay về lịch sử - những yếu tố kiến tạo và định hình nên con người.
Chẳng hạn như, nhân học xã hội và nhân học sinh học có những phương pháp tiếp cận khác nhau, và không bên nào có thể tự nhận mình là duy nhất hay phủ nhận giá trị của bên còn lại. Thực tế, kết quả nghiên cứu của ngành này có thể được ứng dụng cho ngành kia. Điểm chung của các trường phái nhân học khu vực là mỗi trường phái đều có quyền lý giải về con người theo cách riêng, nhưng hạn chế của họ là chỉ dựa trên những dữ liệu cụ thể mà họ có được. Con người bị phân tích thành từng yếu tố riêng lẻ, sau đó được tái tạo lại dựa trên những dữ liệu cụ thể, và từ đó, vô tình bị kiểm soát bởi chính những dữ liệu ấy. [12] Các trường phái nhân học khu vực và cụ thể đều cho rằng nguồn gốc của con người nằm ở thế giới xung quanh, bắt nguồn từ chính những thực tế kinh nghiệm. Những thực tế này tác động đến con người theo những cách riêng biệt nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng đến toàn bộ con người ấy. Do đó, mỗi trường phái nhân học đều có giá trị bởi vì chúng đều nghiên cứu những dữ liệu thực tế, những dữ liệu cụ thể và kinh nghiệm đã và đang ảnh hưởng, kiến tạo và định hình nên con người. Chính vì dữ liệu là có thật nên mỗi trường phái đều có chỗ đứng riêng. Tóm lại, con người, với tư cách là chủ thể tiếp nhận thông tin, là một thực thể lịch sử, chịu ảnh hưởng bởi những trải nghiệm thường nhật, những dữ liệu cụ thể và thực tế. [13]
Ngoài ra, con người đón nhận thông điệp từ những người được Thiên Chúa tuyển chọn để truyền tải lời Ngài, đó chính là các vị ngôn sứ. Nhiệm vụ của các ngôn sứ là diễn giải lời tự tỏ bày nguyên thủy của Thiên Chúa. Tuy nhiên, việc diễn giải này không phải là một quá trình suy tư thuần túy của con người hay tự nhiên mà là do chính Thiên Chúa hướng dẫn. Nói cách khác, khi Thiên Chúa tự tỏ bày chính mình, Ngài cũng đồng thời tự giải thích chính mình thông qua những con người mà Ngài đã trao quyền và dẫn dắt.[14] Điều này không có nghĩa là việc diễn giải của ngôn sứ và việc Thiên Chúa tự giải thích thông qua ngôn sứ là hai việc tách biệt, trái lại, chúng là một phần không thể tách rời trong sự kiện lịch sử Thiên Chúa tự thông ban một cách siêu việt.
Việc Thiên Chúa tự tỏ bày và tự giải thích thông điệp nguyên thủy của Ngài, cũng như việc các ngôn sứ diễn giải sự tự tỏ bày ấy, đều có tiến trình lịch sử riêng và đều nằm trong kế hoạch cứu độ và sự quan phòng của Thiên Chúa. [15] Nói theo cách thần học, ánh sáng đức tin được ban cho tất cả mọi người. Ánh sáng ấy đã soi dẫn các ngôn sứ thấu hiểu và loan báo thông điệp của Thiên Chúa, đồng thời giúp người nghe lĩnh hội được thông điệp ấy. Ánh sáng đức tin chính là "chủ thể con người được thần hóa, được hình thành bởi chính sự tự thông ban của Thiên Chúa." [16]
Ánh sáng đức tin đóng vai trò vô cùng quan trọng, giúp người nghe thấu hiểu và truyền tải chính xác những trải nghiệm siêu việt về Thiên Chúa trong dòng chảy lịch sử thông qua việc giải thích đúng đắn. Nhiệm vụ của ngôn sứ là diễn tả những trải nghiệm siêu việt ấy một cách chính xác "để nó cũng trở thành, đối với những người khác, sự hiện thực hóa chính xác và thuần khiết về chính những trải nghiệm siêu việt của họ về Thiên Chúa, và có thể được nhận ra trong sự chính xác và thuần khiết đó." [17] Điều này cho thấy rằng không phải ai cũng là ngôn sứ, mà những người khác là những người tiếp nhận lời Thiên Chúa tự tỏ bày thông qua sự trung gian của các ngôn sứ. [18]
Thực vậy, thông qua việc tự giải thích của các ngôn sứ, người khác tìm thấy một mô hình, một động lực và nguồn cảm hứng để noi theo. Điều này không có nghĩa là ngôn sứ chỉ đơn thuần chia sẻ quan điểm cá nhân của mình, mà họ còn chia sẻ chính sự tự tỏ bày siêu việt của Thiên Chúa. Do đó, những gì ngôn sứ chia sẻ, như là kết quả của sự tự giải thích, không phải là lý thuyết suông, mà là thực tại lịch sử, là những điều đã xảy ra và được Thiên Chúa mặc khải. [19] Người nghe, trong sự tương giao với nhau, liên tục đối thoại và kiểm chứng sự giải thích của chính mình dựa trên những giải thích của các ngôn sứ - những người được xem là hình mẫu và nguồn cảm hứng. Sự tự giải thích của mỗi cá nhân không diễn ra trong sự cô lập, mà trong bối cảnh của một cộng đồng tôn giáo lịch sử, với những nhân vật như các ngôn sứ, những người có cách giải thích được coi là điểm tham chiếu. Các ngôn sứ có thẩm quyền trong việc giải thích các mặc khải bởi vì người nghe tin vào họ như những nguồn cảm hứng và hình mẫu. Chính vì vậy, chúng ta có thể nói về một lịch sử mặc khải chính thức và có hệ thống. [20]
Từ những điều đã trình bày, chúng ta có thể rút ra hai điểm chính cần ghi nhớ: Thứ nhất, con người là người tiếp nhận thông điệp và việc tiếp nhận này diễn ra trong bối cảnh của những trải nghiệm và lịch sử cụ thể. Thứ hai, các ngôn sứ đóng vai trò truyền tải thông điệp đến với con người. Để kết thúc phần này, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng: Người nghe sẽ không thể thấu hiểu thông điệp nếu không có ánh sáng soi dẫn từ Thiên Chúa.
GHI CHÚ:
[1] Karl RAHNER, Foundations of Christian faith, An introduction to the idea of Christianity, translated by William V. DYCH, London, Darton Longman and Todd, 1978, 24.
[2] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 25.
[3] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 24-25.
[4] Karl RAHNER, The prospects for dogmatic theology, trong Karl RAHNER, “Theological investigations, Volume 1: God, Christ, Mary and Grace,” New York, Crossroad publishing company, 1982, 43.
[5] RAHNER, Foundations of Christian faith, 25.
[6] RAHNER, Foundations of Christian faith, 25.
[7] Anne CARR, The God who is involved, trong Gordon MIKOSKI, “Theology Today,” 38 (1981) 315.
[8] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 25-26.
[9] RAHNER, Foundations of Christian faith, 26.
[10] RAHNER, Foundations of Christian faith, 26.
[11] RAHNER, Foundations of Christian faith, 27.
[12] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 28.
[13] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 27-28.
[14] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 158.
[15] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 155.
[16] RAHNER, Foundations of Christian faith, 159.
[17] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 159.
[18] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 158.
[19] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 157-158.
[20] x. RAHNER, Foundations of Christian faith, 161.