THIÊN CHÚA TỰ TRUYỀN THÔNG VÀ 'SỰ TỰ DO TRONG TỰ DO'
THIÊN CHÚA TỰ TRUYỀN THÔNG VÀ 'SỰ TỰ DO TRONG TỰ DO'
Tác giả: Linh mục - Tiến sĩ Charles Ndhlovu.(God’s self-communication and the ‘freedom of freedom’)
Chuyển ngữ và bổ sung tiêu đề: Tu sĩ Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM
[Tự Do - Món Quà và Thách Thức]
Trong bài viết, tác giả trình bày lập luận rằng tự do cần được giải phóng để con người, dù mang trong mình dấu ấn của tội nguyên tổ, vẫn có khả năng lựa chọn điều thiện và hướng đến những điều tốt đẹp hơn - đó là sự tự do đi đôi với trách nhiệm.
Để tự do con người có được ý nghĩa trọn vẹn, cần có sự trợ giúp từ ân sủng và sự tự thông ban của Thiên Chúa - hay có thể hiểu là Mầu Nhiệm Cực Thánh. Tuy nhiên, ngay cả khi nhận được sự trợ giúp này, con người vẫn có thể chối từ không chỉ ý tưởng về Thiên Chúa mà còn cả chính Ngài. Khi con người quay lưng với Thiên Chúa và ý niệm về Ngài, cuộc sống và sự hiện hữu của họ trở thành minh chứng cho sự phủ nhận Thiên Chúa. Dẫu vậy, việc phủ nhận Thiên Chúa, bất kể dưới hình thức nào, cũng đều chứa đựng mâu thuẫn ngay trong nó. [1] Có người cho rằng họ đang khẳng định bản thân khi nói "không" với Thiên Chúa, nhưng thực chất, họ đang tự giam mình trong một lập trường tuyệt đối, khiến họ lạc lối và đánh mất tất cả. Thực tế, con người cần tự nguyện hiến dâng cho Thiên Chúa vô điều kiện. Nếu không, khi chối bỏ Thiên Chúa một cách triệt để, họ sẽ tự đẩy mình vào vòng xoáy của nghịch lý, phủ nhận chính bản chất thật sự của mình - là những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi sống yêu mến Ngài.
[Quyết Định Tự Do và Số Phận Con Người]
Từ đó, ta nhận thấy sức nặng của quyết định chấp nhận hay từ chối Thiên Chúa nơi mỗi con người. Lựa chọn trong tự do, hướng về hay quay lưng với Thiên Chúa, sẽ quyết định số phận và đích đến cuối cùng của họ. Khi con người lựa chọn chối bỏ Thiên Chúa một cách hoàn toàn và dứt khoát, họ sẽ rơi vào cảnh khốn cùng - điều mà truyền thống và kinh thánh đã minh chứng bằng những hình ảnh và dụ ngôn sống động, cho thấy rõ sự bần cùng và những hệ lụy đến từ việc chối bỏ Thiên Chúa.
Vậy nên, khi tiếp cận những tác phẩm văn chương về thời kỳ cánh chung, điều cần chú ý không gì khác ngoài việc nhận diện mâu thuẫn cố hữu xuất hiện khi "tự do đi đến quyết định cuối cùng, dứt khoát chối bỏ những quy luật hiện thực của thế giới do Thiên Chúa tạo dựng."[2]
[Thiên Chúa - Nguồn Gốc và Nền Tảng Cho Tự Do]
Điều này cho thấy rõ ràng rằng việc lựa chọn theo Chúa hay chống lại Chúa là một quyết định mang tính bước ngoặt, bởi nó định hình nên chính bản thân và số phận sau cùng của con người - những tạo vật được tự do. Tuy nhiên, tự do của con người không phải là một sự giới hạn đối với quyền năng tối thượng của Thiên Chúa, bởi chính Ngài là người đã tạo dựng nên sự tự do và tự chủ ấy. Chính Thiên Chúa đã thiết lập nên sự khác biệt căn bản giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật. "Sự khác biệt này không phải là điều xảy đến với Ngài một cách ngẫu nhiên, mà chính Ngài là người đã chủ ý tạo dựng nên nó. Ngài thiết lập, cho phép và ban cho nó quyền tự do để tự hiện thực hóa sự khác biệt đó."[3] Vì vậy, ta có thể khẳng định rằng "Mặc dù Thiên Chúa không hề phụ thuộc vào tạo vật, nhưng sự lệ thuộc hoàn toàn của tạo vật vào Ngài chính là nền tảng cho sự tự chủ của chúng. Chính sự tự chủ cá nhân này, vốn là một ân huệ từ Đấng Tạo Hóa, là điều kiện tiên quyết để Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn khác biệt, có thể tự bày tỏ mình trong ân sủng."[4]
[Tự Do Cá Nhân Trong Lịch Sử và Cộng Đồng]
Tự do của con người được thể hiện trong dòng chảy lịch sử và trong thế giới của những cá nhân, nơi mỗi người nam và người nữ đều là những chủ thể tự do. Họ hành động tự do trong một bối cảnh được định hình bởi những người khác - hay theo cách nói của triết học là "sự đã được trao cho của hoàn cảnh". "Dù chúng ta có tự do ở một mức độ nào đó, ta phải thừa nhận rằng chính những điều kiện xã hội và cá nhân hiện hữu đã đồng kiến tạo nên chủ thể của chúng ta."[5] Nói cách khác, "tự do chiếm lĩnh cái vật chất mà nó dùng để hiện thực hóa bản thân như một yếu tố nội tại và cấu thành, vốn dĩ đã được đồng quyết định bởi chính tự do, và hợp nhất nó vào sự tồn tại cuối cùng mà tự do sở hữu."[6]
Tự do của mỗi cá nhân, ngoài những yếu tố khác, còn chịu ảnh hưởng và được quyết định bởi chính lịch sử tự do của những người xung quanh. Hay nói cách khác, sự hiện thực hóa tự do của một người mang trong mình dấu ấn của sự hiện thực hóa tự do từ những người khác trên thế giới. [7] Thực tế cho thấy, một người "nhận ra bản thân mình luôn tồn tại song hành với những người khác, và chính vì vậy, người khác trở thành đối tượng tự nhiên của anh ta. Sự hiện diện của anh ta với chính mình đồng thời cũng là sự hiện diện với những người xung quanh, và anh ta khao khát được thấu hiểu bản thân mình với tất cả tiềm năng từ chính nền tảng này […]." [8]
[Tự Do Đối Diện Với Tội Lỗi và Trách Nhiệm Cá Nhân]
Nói cách khác, chính sự hiện diện của tội lỗi và lỗi lầm từ người khác có thể tác động đến mỗi cá nhân, khiến cho việc đưa ra lựa chọn tự do trở nên khó khăn và đầy đau khổ. Trải nghiệm bị chi phối bởi tội lỗi của người khác là trải nghiệm nguyên thủy, mang tính phổ quát và cũng vô cùng dai dẳng. [9]
Mặc dù có ý kiến cho rằng tự do con người bị chi phối bởi nhiều yếu tố, nhưng vẫn có niềm tin rằng con người phải chịu trách nhiệm trước Chúa về những lựa chọn và hành động của bản thân. Mặc dù cả hai điều này đều đúng và không thể phủ nhận, nhưng ta vẫn có thể khẳng định rằng mỗi người là độc nhất và tự chịu trách nhiệm về những quyết định và hành động của mình. Chính vì vậy, trong Thần học Công giáo, khi nói về việc tội lỗi của Adam là tội lỗi của chúng ta, thì điều đó chỉ đúng theo nghĩa tương đồng chứ không phải đồng nhất – có nghĩa là – chúng ta được thừa hưởng từ Adam và Eva khả năng phạm tội, và chính khả năng này, chứ không phải tội lỗi, mới là điều kiện cho tự do lựa chọn của chúng ta. Nói cách khác, chúng ta được tự do lựa chọn có hiện thực hóa khả năng phạm tội đó hay không.
[Tội Lỗi Nguyên Tổ - Di Sản và Ân Sủng Giải Thoát]
Khi con người khước từ đón nhận Ơn Chúa, họ đánh mất khả năng sử dụng tự do đúng cách và trở thành nô lệ cho những điều mình không mong muốn. Adam và Eva đã minh chứng cho điều này khi họ ăn trái cấm, và di sản của sự lựa chọn sai lầm ấy chính là "khuyết điểm" mà tất cả chúng ta đều thừa hưởng: tiềm năng phạm tội. Giống như một khiếm khuyết di truyền, khả năng lạm dụng tự do đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, khiến chúng ta dễ dàng sa ngã vào những điều sai trái.
Câu chuyện về tội lỗi nguyên thủy, dù mang tính biểu tượng [10], vẫn là lời giải thích sâu sắc về nguồn gốc của tội lỗi và tự do trong lịch sử nhân loại. Câu chuyện về Adam và Eva cho thấy:
Tính liên kết của nhân loại: Bất cứ điều gì xảy ra với một người đều có thể ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại.
Tính phổ quát của con người: Dù khác biệt, chúng ta đều là con người, có chung một nguồn gốc và một đích đến.
Sự thống nhất trong trật tự cứu rỗi: Sự cứu rỗi của Chúa Kitô dành cho tất cả mọi người. [11]
Chúa Giêsu Kitô đã đến để giải thoát chúng ta khỏi vòng luẩn quẩn của sự lạm dụng tự do. Ngài đã chọn vâng phục thánh ý Chúa Cha, hy sinh trên thập giá để cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi. Nhờ ân sủng của Ngài, chúng ta có thể đưa ra những lựa chọn đúng đắn và hướng đến tự do đích thực.
[Hành Trình Tìm Kiếm Tự Do Đích Thực]
Tuy nhiên, hành trình tìm kiếm "tự do đích thực" là một nỗ lực không ngừng nghỉ. Dù được giải phóng khỏi tội lỗi, chúng ta vẫn dễ mắc sai lầm do những yếu tố bên trong và bên ngoài. Vì vậy, việc thanh lọc ý muốn và lựa chọn của bản thân là một nhiệm vụ trọn đời
GHI CHÚ:
[1] X. RAHNER, Foundations of Christian faith, 100-101.
[2] RAHNER, Foundations of Christian faith, 102.
[3] RAHNER, Foundations of Christian faith, 105.
[4] CARR, The God who is involved, 320.
[5] SCOTT, God as person, 171.
[6] RAHNER, Foundations of Christian faith, 107.
[7] RAHNER, Foundations of Christian faith, 107.
[8] RAHNER, Spirit in the world, 77.
[9] RAHNER, Foundations of Christian faith, 107-109.
[10] X. RAHNER, Foundations of Christian faith, 114.
[11] X. Karl RAHNER, Membership of the Church, trong Karl RAHNER, “Theological investigations, Volume 2, London, Darton, Longman and Todd, 1963, 78-79.