SỰ TỰ TRUYỀN THÔNG CỦA THIÊN CHÚA TRONG LỊCH SỬ
Tác giả: Linh mục Charles Ndhlovu, Tiến sĩ, tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Truyền thông Xã hội chuyên ngành Thần học Truyền thông tại Đại học Giáo hoàng Salesianum ở Rome - Ý.
Nguồn bài viết: [xin xem tại đây]
Chuyển ngữ: Tu sĩ Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM
Trong bài viết này, tác giả lập luận rằng sự tự truyền thông (self-communication) của Thiên Chúa không chỉ diễn ra trong lịch sử cứu độ mà còn trong lịch sử nhân loại.
Rõ ràng, việc thống nhất cách giải thích về những trải nghiệm siêu việt (transcendental experiences) trong các lịch sử và tôn giáo khác nhau thành một hướng đi duy nhất và rõ ràng là một điều khó khăn. Bởi lẽ, mỗi tôn giáo có thể có cách hiểu khác nhau về các sự kiện tôn giáo và siêu việt đã diễn ra trong lịch sử.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là những dòng lịch sử (histories) này đều có một hướng đi. Chúng có một sự chuyển động. Chúng hướng đến một điểm đến nhất định.
Các Kitô hữu và các nhà thần học thường nhận định những dòng lịch sử này đều hướng về Chúa Giêsu Kitô như là sự tự truyền thông tuyệt đối của Thiên Chúa. Nói cách khác, mọi dòng lịch sử và sự kiện trước Chúa Giêsu đều là tiền đề dẫn đến sự mặc khải (revelation) và sự xuất hiện của Ngài, Con Thiên Chúa. Ngài chính là sự tự mặc khải (self-revelation) và tự truyền thông dứt khoát và tuyệt đối của Thiên Chúa.
Sự tự truyền thông của Thiên Chúa trong lịch sử tìm thấy sự viên mãn (fulfilment) trong Chúa Giêsu Kitô. Chính vì vậy, chúng ta có thể nói rằng lịch sử Cựu Ước là sự chuẩn bị cho sự xuất hiện của Chúa Giêsu. Ví dụ, công việc tuyệt vời và đáng trân trọng của Môsê và truyền thống tiên tri (prophetic tradition) nói chung là một sự chuẩn bị lớn cho sự viên mãn của sự tự truyền thông của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu.
Lịch sử và sự tự truyền thông trong Cựu Ước chính là nền tảng cho sự tự truyền thông trọn vẹn của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Nếu hiểu Chúa Giêsu Kitô theo cách này, chúng ta sẽ thấy rằng ngài là cơ sở và nền tảng của lịch sử Kinh Thánh và sự tự truyền thông Kinh Thánh.
Sự tự truyền thông này mang tính đối thoại (dialogic). Thiên Chúa đối thoại với con người hầu đưa con người đến ơn cứu độ. Thiên Chúa trong Chúa Giêsu đã mang đến sự viên mãn cho mục tiêu này.
Đó là lý do tại sao lịch sử Kinh Thánh và lịch sử trần thế (secular history) đều là sự tự truyền thông tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Tình yêu ấy được thể hiện trọn vẹn trong con người của Chúa Giêsu - vì Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để tất cả những ai tin vào Ngài đều được cứu rỗi.
Lịch sử mặc khải đã diễn ra trong tất cả các dân tộc. Bởi vì đó là lịch sử của tội lỗi, của sự sa ngã (the fall) và chối bỏ Thiên Chúa. Và điều này đã xảy ra trong tất cả các dân tộc.
Con người thuộc mọi thời đại, con người thuộc mọi quốc gia và con người thuộc mọi nơi đều đã sa ngã, đã đứng lên, đã chấp nhận Thiên Chúa nhưng cũng có lúc chối bỏ Thiên Chúa. Chu kỳ sa ngã và đứng lên, lên xuống trong đời sống tâm linh (spiritual life), chấp nhận và phủ nhận Thiên Chúa - tất cả đều là những biểu hiện phổ quát (universal manifestations) đã diễn ra trong lịch sử Kinh Thánh và cả trong lịch sử trần thế.
Đó là lý do tại sao sự phân đôi giữa lịch sử trần thế và lịch sử Kinh Thánh đôi khi bị bác bỏ. Bởi vì về cơ bản Thiên Chúa đã tự bày tỏ mình (revealed himself) không chỉ trong lịch sử Kinh Thánh mà còn trong lịch sử trần thế. Có những người rõ ràng được kêu gọi từ một nền tảng ngoại giáo (pagan background) và ngay lập tức được đưa vào lịch sử Kitô giáo. Điều này cho thấy rằng Thiên Chúa không chỉ hoạt động trong lịch sử Kitô giáo mà còn can thiệp vào lịch sử trần thế.
Trong bối cảnh và trường hợp này, chúng ta có thể nói rằng Cựu Ước là sự chuẩn bị cho biến cố Đức Kitô (Christ event). Cựu Ước là lịch sử trước (prehistory) ngay lập tức và gần gũi của Chúa Giêsu. Chính trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã bắt đầu ban sự tự truyền thông của Ngài cho con người. Và sự tự truyền thông này đã đạt đến đỉnh cao và tột bậc trong Chúa Giêsu Kitô - sự viên mãn của sự tự truyền thông của Thiên Chúa cho con người.
Trong bối cảnh này, chúng ta có thể nói rằng lịch sử cứu độ (history of salvation) và lịch sử mặc khải là một lịch sử tiến bộ (progressive history). Trong đó, mỗi thế hệ đều tham gia theo cách nào đó. Cả hai lịch sử, cụ thể là lịch sử cứu độ và lịch sử mặc khải, đã dần dần dẫn chúng ta đến biến cố Thiên Chúa làm người (God-man event).
Chúa Giêsu là sự tự truyền thông tuyệt đối của Thiên Chúa. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa tự truyền thông mình cho con người. Trong Chúa Giêsu, lịch sử mặc khải và lịch sử cứu độ đạt đến đỉnh cao. Ngoài ra, trong Thiên Chúa làm người, con người đạt đến mục tiêu cuối cùng của mình - đó là được ban cho lời đề nghị cứu rỗi.
Chính trong bối cảnh này, ta có thể khẳng định rằng lịch sử cứu độ diễn ra trong lịch sử nhân loại. Do đó, không thể tưởng tượng được việc phát triển một nền thần học (theology) tách rời khỏi không chỉ siêu việt mà còn cả nhân học (anthropological). Đó là lý do tại sao một số nhà thần học nói về nhân học thần học (theological anthropology) hoặc thần học hiện sinh (existential theology). Ý tưởng là lịch sử của con người là bối cảnh mà Thiên Chúa đã tự bày tỏ mình. Lịch sử không tách rời khỏi thần học - cả hai đều là bối cảnh mà Thiên Chúa đã tự bày tỏ mình - cả trong lịch sử của con người và trong lịch sử cứu độ.
Nhập thể (Incarnation) là nơi chốn và biến cố mà Thiên Chúa đã trở nên con người. Trong Chúa Giêsu, sự tự truyền thông của Thiên Chúa cho con người đã đạt đến một điểm không thể đảo ngược và không thể hủy bỏ trong lịch sử. Chính qua việc chấp nhận cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn toàn chấp nhận sự tự truyền thông của Thiên Chúa.
Do đó, chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu là sự viên mãn của sự tự truyền thông của Thiên Chúa cho con người. Ngài là sự viên mãn của việc con người chấp nhận sự tự truyền thông của Thiên Chúa. Chính qua Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã hoàn toàn mặc khải chính Ngài và đã hoàn toàn mặc khải kế hoạch của Ngài cho con người. Cũng chính qua Chúa Giêsu Kitô mà sự tự truyền thông của Thiên Chúa cho con người đã được đón nhận trọn vẹn qua cái chết của Ngài trên thập giá. Tất cả những điều này đã diễn ra trong lịch sử - trong lịch sử cứu độ, trong lịch sử mặc khải và cả trong lịch sử của con người.