1986 Hướng dẫn đào tạo Linh Mục tương lai về Truyền thông Xã hội
BỘ GIÁO DỤC CÔNG GIÁO
HƯỚNG DẪN ĐÀO TẠO LINH MỤC TƯƠNG LAI VỀ
CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
Chuyển ngữ: Tu sĩ Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM
Nguồn tài liệu: Guide to the training of future priests concerning the instruments of social communications (March 19, 1986) (vatican.va)
GIỚI THIỆU
Khi đề cập đến hiện tượng phức tạp của các phương tiện truyền thông xã hội hiện đại, sắc lệnh công đồng Vaticanô II Inter mirifica đã làm nổi bật nhiều vấn đề có tính chất mục vụ và giáo dục. Những vấn đề này liên quan đến toàn thể Dân Chúa, bao gồm giáo sĩ, giáo dân, các cơ sở tông đồ và giáo dục, trong đó các chủng viện đóng vai trò quan trọng. Những luận bàn ngắn gọn đến vấn đề này trong điều 16 của sắc lệnh Inter mirifica và sau đó được mở rộng trong điều 111 của Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio và trong điều 68 của Ratio Fundamentalis. Nội dung của các điều khoản này là một điểm tham chiếu quan trọng cho các Viện đào tạo linh mục (các khoa thần học, chủng viện, các trường đào tạo tôn giáo), và là một động lực hiệu quả cho họ trong hoạt động giảng dạy và mục vụ thực hành.
Do sự đa dạng lớn về tình hình địa phương, có thể hiểu rằng công tác đào tạo và kết quả trong lĩnh vực này không đồng đều ở mọi nơi. Đào tạo về các phương tiện truyền thông xã hội là một lĩnh vực tương đối mới, đôi khi thiếu cả kinh nghiệm phù hợp và giáo viên chưa được chuẩn bị tốt, khiến cho toàn bộ công việc đào tạo nhiều trường hợp trở nên khó khăn, tổ chức kém và không đầy đủ. Đôi khi có sự chậm trễ và thiếu hụt về tổ chức và kỹ thuật, điều này trái ngược với sự phát triển nhanh chóng đang diễn ra trong các hệ thống và kỹ thuật truyền thông, liên quan đến toàn bộ lĩnh vực văn hóa, xã hội và tinh thần của con người (x. Gioan Phaolo II, Thông điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 29, ngày 15 tháng 4 năm 1985).
Để việc chuẩn bị cho các linh mục tương lai trong lĩnh vực này ít bị thiếu hụt hơn và có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu công việc đang chờ đợi họ, Bộ Giáo dục Công giáo, sau khi tham khảo ý kiến rộng rãi với các chuyên gia trong lĩnh vực này, đặc biệt là với Ủy ban Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, rất vui mừng gửi đến các chủng viện "Hướng dẫn" này với hy vọng rằng nó sẽ phần nào giúp họ thực hiện trách nhiệm của mình. Dù có những phát triển trong tương lai và sự đa dạng về tình hình địa phương, tất cả các viện đào tạo linh mục ngày nay đều phải khẩn trương đối mặt với một số câu hỏi cơ bản chung liên quan đến hành vi cá nhân của người tiếp nhận, việc sử dụng mục vụ của các phương tiện truyền thông đại chúng, và đào tạo chuyên sâu cho các công việc cụ thể. Dựa trên kinh nghiệm của những năm gần đây, chúng tôi đưa ra một số hướng dẫn chung cho cả ba cấp độ đào tạo, để lại cho Quý Đức Giám mục và các Nhà giáo dục đáng kính việc áp dụng vào các hoàn cảnh cụ thể và nhu cầu địa phương.
Chắc chắn là trong lộ trình đào tạo được mô tả trong tài liệu này sẽ có một số hạn chế nhất định. Nhưng chúng tôi tin rằng, dù có như vậy, một độc giả thiện chí và lưu tâm sẽ thấy nó đủ sức khơi gợi và có khả năng gây ấn tượng lên toàn bộ công việc giáo dục của các chủng viện, hướng đến một phương hướng phù hợp hơn với ý định của Công đồng Vatican II và nhu cầu tinh thần của thời đại chúng ta. Chúng tôi hy vọng rằng tài liệu này sẽ được đón nhận nồng nhiệt, và thông điệp của nó sẽ được thực hiện trong tất cả các viện đào tạo linh mục vì lợi ích của các ứng viên linh mục và toàn thể Giáo hội.
Văn phòng Bộ Giáo dục Công giáo,
Roma, ngày 19 tháng 3 năm 1986,
Lễ Thánh Giuse.
HỒNG Y WILLIAM BAUM
Tổng trưởng
ANTONIO M. JAVIERRE ORTAS
Tổng Giám mục Hiệu tòa Meta, Tổng Thư ký
LỜI DẪN
1. Truyền thông nhân loại, một món quà của Chúa. Thiên Chúa, Đấng Tối Cao không ngừng truyền thông các món quà của Ngài cho nhân loại, đối tượng quan tâm và yêu mến của Ngài, chờ đến thời gian Ngài truyền thông chính mình một cách trọn vẹn hơn cho họ trong diện kiến vinh phúc. Hơn nữa, để hình ảnh Thiên Chúa trong con người càng ngày càng phản chiếu sự hoàn hảo của Ngài (x. Mt 5, 48), Thiên Chúa muốn liên kết họ trong công trình của Ngài, làm cho họ trở thành những sứ giả và người phân phát chính những món quà tương tự cho anh chị em và toàn thể nhân loại.
Do nhu cầu tự nhiên, từ những khoảnh khắc đầu tiên của sự tồn tại, con người đã bắt đầu truyền đạt những giá trị tinh thần của họ với đồng loại [1] thông qua các dấu hiệu có thể cảm nhận được bằng giác quan. Dần dần theo thời gian, họ đã khám phá và phát minh ra các phương tiện và công cụ truyền thông, ngày càng vượt qua những giới hạn ban đầu do không gian và thời gian áp đặt. Hiện nay, với sự phát triển không ngừng của công nghệ, truyền thông mang tính toàn cầu và tức thời đã trở nên khả thi giữa các thành viên của loài người, và các công cụ cho phép trao đổi này đang phát triển với những hình thức tinh vi và phức tạp hơn với tốc độ đáng kinh ngạc (ví dụ: tin học, viễn thông).
2. Mặc khải và truyền thông. Giáo hội không thể không quan tâm đến sự phát triển mang tính quan phòng này, vì Giáo hội được giao nhiệm vụ truyền tải những chân lý của sự mặc khải thiêng liêng đến toàn thể nhân loại. Thực tế, Thiên Chúa, sau khi "nhiều lần nhiều cách phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh tử" (Hr 1,1-2) và Ngài đã sắp đặt " những điều Ngài đã một lần mặc khải cho sự cứu độ sẽ được giữ nguyên vẹn và truyền lại cho mọi thế hệ". Vì vậy, Chúa Kitô đã truyền lệnh cho các tông đồ rao giảng Tin mừng cho tất cả mọi người. Điều này đã được thực hiện một cách trung thành: các tông đồ đã truyền lại, bằng lời giảng dạy, bằng gương sống và các thiết chế họ đã lập ra, những gì họ đã nhận được - dù từ miệng Chúa Kitô, từ cách sống của Người và từ những công việc của Người...; điều này cũng đã được thực hiện bởi các tông đồ và những người khác liên kết với các tông đồ đã... ghi chép lại thông điệp cứu độ.
“Để Tin Mừng có thể được gìn giữ nguyên vẹn và sống động trong Hội Thánh, các tông đồ đã đặt các giám mục làm người kế vị. Họ được trao cho quyền giảng dạy.” [2]
3. Từ “truyền thông tới hiệp thông”. Trong thời gian gần đây, Giáo hội đã coi các phương tiện truyền thông xã hội như những phương tiện quan trọng để thực hiện sứ mệnh rao giảng lời cứu độ “từ trên mái nhà” (Lc 12, 3), "cho mọi dân tộc" (Mc 16, 15), "đến tận cùng trái đất" (Cv 1, 8). Hơn nữa, Giáo hội còn quan tâm đến việc giáo dục và chăm sóc con người toàn diện, cả với tư cách là nhân loại và là Kitô hữu. Giáo hội đã đón nhận những công cụ này với vòng tay rộng mở như là "những phát minh kỳ diệu có tác động mạnh mẽ đến tâm trí con người" [3] và như là "những thành quả tuyệt vời của công việc và sự sáng tạo của con người, món quà của Thiên Chúa từ Đấng mà mọi điều tốt lành đều đến".[4]
Tuy nhiên, nhận thức được sự mâu thuẫn văn hóa và đạo đức đôi khi xuất hiện trong các chương trình truyền thông, Giáo hội "với sự chăm sóc cẩn thận" [5] đã cố gắng ngăn chặn mọi "sử dụng trái với kế hoạch của Đấng Tạo Hóa" [6] và những gì có thể gây hại hoặc hủy hoại con người.
Giáo lý hậu công đồng của Giáo hội chỉ ra rằng, lý tưởng nhất, "truyền thông" nên dẫn đến "hiệp thông", dù là giao tiếp cá nhân hay "truyền thông đại chúng". Giáo lý này làm một phép so sánh với hai mẫu mực thần thánh về giao tiếp-hiệp thông hoàn hảo. Đầu tiên là Chúa Giêsu Kitô, "Người Giao Tiếp Hoàn Hảo", trong Ngài, Lời nhập thể đã làm cho mình trở thành "bản chất của những người sẽ nhận được sự giao tiếp của Ngài và truyền tải thông điệp của Ngài không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cách sống của Ngài. Ngài nói từ bên trong, từ giữa lòng dân của Ngài. Ngài điều chỉnh theo cách nói và cách suy nghĩ của họ. Và Ngài nói ra từ hoàn cảnh khó khăn của thời đại họ...
"Trong việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Kitô đã ban cho chúng ta hình thức hiệp thông hoàn hảo nhất, thân mật nhất giữa Thiên Chúa và con người... Hơn nữa, Chúa Kitô đã truyền đạt cho chúng ta Thánh Thần ban sự sống của Ngài, Đấng mang tất cả mọi người lại với nhau trong sự hiệp nhất". [7]
Mẫu mực khác có thể được tìm thấy trong "mầu nhiệm trung tâm của sự hiệp thông vĩnh cửu giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, những Đấng sống một cuộc sống thần linh duy nhất" [8]
4. Các phương tiện truyền thông xã hội và chức linh mục thừa tác. Trong vài thập kỷ qua, các phương tiện truyền thông xã hội đã đạt đến mức độ ảnh hưởng to lớn và sâu rộng đến hầu hết mọi khía cạnh, lĩnh vực và mối quan hệ của xã hội. Những vấn đề mới nảy sinh từ ảnh hưởng ngày càng tăng này đã dẫn đến nhiều giáo huấn, khuyến cáo và quy định từ Giáo hội. Những điều này không chỉ nhằm bảo vệ và mang lại lợi ích cho các tín hữu và mỗi người thiện chí, mà còn cho tất cả những ai được gọi để thực hiện chức vụ linh mục trong thế giới hiện đại. [9]
Theo các hướng dẫn chính thức của Giáo hội, Bộ này, từ năm 1970, trong tài liệu Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, đã đưa ra các chỉ dẫn chung về việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, và đã quy định rằng các linh mục tương lai cần được đào tạo trong chủng viện về cách sử dụng đúng đắn các phương tiện này. Quy định này có ba mục đích: thứ nhất, để các chủng sinh có thể tự kỷ luật trong việc sử dụng cá nhân các phương tiện truyền thông; thứ hai, để họ có thể hướng dẫn các tín hữu tự kỷ luật tương tự; và thứ ba, để họ học cách sử dụng các phương tiện truyền thông trong công tác tông đồ của mình. [10]
Năm sau, Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio cũng đã nhấn mạnh vấn đề này. Tài liệu này nói: "Nếu các sinh viên chuẩn bị cho chức linh mục và các tu sĩ đang được đào tạo muốn trở thành một phần của đời sống hiện đại và cũng có hiệu quả trong công tác tông đồ của họ, họ nên biết cách các phương tiện truyền thông tác động lên xã hội, và cũng cần biết kỹ thuật sử dụng chúng. Kiến thức này nên là một phần không thể thiếu trong chương trình giáo dục của họ". [11]
5. Tình huống hiện nay. Hướng dẫn trong Ratio Fundamentalis (về đào tạo linh mục) phải được các Hội đồng Giám mục thẩm quyền lưu ý trong khi soạn các Nguyên tắc đào tạo cho quốc gia mình, để nó có thể phát huy được hiệu quả đặc biệt trong nội qui và chương trình của chủng viện.
Vì đây là việc đưa một yếu tố hoàn toàn mới vào chương trình giảng dạy của chủng viện, nên khó khăn là điều không thể tránh khỏi. Hiểu rõ điều này, Bộ đã bắt đầu một cuộc điều tra vào năm 1977 tại tất cả các chủng viện, lớn và nhỏ, để xác định xem chỉ thị về việc giới thiệu một chương trình đào tạo trong lĩnh vực truyền thông xã hội đã được hiểu và thực hiện đến đâu.
Từ các câu trả lời nhận được, cho thấy rằng trong phần lớn các trung tâm đào tạo giáo hội, vấn đề này đã được chú ý; tuy nhiên, các chương trình chính thức và có hệ thống vẫn còn thiếu, hoặc vì mục tiêu và phạm vi cụ thể của chương trình chưa được hiểu rõ, hoặc vì chưa phân biệt được giữa các mục tiêu và cấp độ đã được đề ra. Một khó khăn khác là thiếu nhân sự đủ trình độ để chuẩn bị và thực hiện chương trình đào tạo về truyền thông. Một yếu tố khác nữa là thiếu hỗ trợ kỹ thuật và kinh phí.
6. Về hướng dẫn này. Những thiếu sót vẫn chưa được khắc phục theo thời gian, và sự phát triển trong lĩnh vực truyền thông đã khiến các cơ sở đào tạo càng tụt hậu hơn. Vì lý do này, sau khi ghi nhận những tiến bộ vững chắc đã đạt được tại các chủng viện và các cơ sở giảng dạy dưới quyền Giáo hội, Bộ đã quyết định, sau khi tham khảo ý kiến của Ủy ban Tòa Thánh về Truyền thông Xã hội, ban hành Hướng dẫn này. Hướng dẫn sẽ đưa ra một số lời khuyên, đề xuất và chỉ thị. Những chỉ thị này phải mang tính chất khá chung chung do sự thay đổi nhanh chóng và phức tạp của lĩnh vực này, cũng như sự đa dạng của các tình huống địa phương [12]; nhưng mục tiêu là không trì hoãn đưa ra các hướng dẫn đáng tin cậy, để các chỉ thị và gợi ý của Giáo hội và các quy định trong Ratio Fundamentalis được thực hiện chính xác và hiệu quả. Hướng dẫn này nhắm đến trước hết là các hội đồng giám mục và các giám mục của các giáo phận, sau đó là các bề trên và giáo viên trong các chủng viện. Những người trực tiếp bị ảnh hưởng bởi sự khởi đầu và đào tạo cụ thể mà Hướng dẫn đề cập chủ yếu là các sinh viên của các chủng viện lớn và nhỏ trong các lãnh thổ đã nêu. Tuy nhiên, tài liệu này cũng có thể hữu ích cho các chủng viện và cơ sở đào tạo linh mục không thuộc quyền của Bộ Giáo dục Công giáo.
7. Mục tiêu. Mục tiêu chính và trực tiếp của việc khởi đầu và giáo dục cụ thể mà Hướng dẫn quan tâm là trước hết các phương tiện truyền thông của thời đại chúng ta, thường được gọi là phương tiện truyền thông đại chúng [13], hoặc các kỹ thuật phổ biến, hoặc truyền thông đại chúng, hoặc nghe nhìn. Chúng cũng được gọi bằng nhiều tên khác nhau, ít nhiều không chính xác, nhưng Sắc lệnh Inter mirifica, sau đó là Bộ Giáo luật mới [14], đã gọi chúng chính xác hơn là "các phương tiện truyền thông xã hội": "báo chí, điện ảnh, đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện khác có đặc điểm tương tự" (số 1). Thực tế, chúng được phân biệt bởi tính kỹ thuật cao và sự phù hợp đặc biệt để đạt được giao tiếp, yếu tố chính trong hiện tượng xã hội hóa [15], đặc trưng của thời đại ngày nay.
Các vấn đề xã hội và văn hóa, cũng như các vấn đề đạo đức và mục vụ liên quan đến các phương tiện này cũng là một đối tượng của Hướng dẫn. Trước hết trong số này là những vấn đề nảy sinh trong giao tiếp chung của con người, và sau đó là những vấn đề nảy sinh từ công nghệ được sử dụng, đặc biệt là ngày nay, từ vi điện tử. [16]
Tuy nhiên, ngoài mục tiêu chính và trực tiếp của Hướng dẫn này, nhu cầu mục vụ yêu cầu chúng ta thỉnh thoảng quan tâm đến việc nghiên cứu và thực hành các phương tiện và công cụ biểu đạt và giao tiếp khác, chẳng hạn như sân khấu, nghệ thuật tạo hình, v.v., ngay cả khi những điều này nằm ngoài giới hạn mà chúng ta đã chỉ ra ở trên.
8. Tiêu chí biên tập. Hướng dẫn này tránh việc xử lý các câu hỏi kỹ thuật và lý thuyết về truyền thông đại chúng và các hiện tượng xã hội và văn hóa liên quan đến chúng; điều mà các chuyên gia thường không đồng ý với nhau. Ngoài ra, Hướng dẫn cũng không đi sâu vào những gì quyền giáo huấn của Giáo hội đã dạy và quy định về các vấn đề truyền thông trong năm thập kỷ qua; thay vào đó, nó chỉ đơn giản là thu thập tất cả các tài liệu quan trọng và trình bày chúng trong Phụ lục I. Cuối cùng, trong Phụ lục II, hướng dẫn liệt kê các chủ đề và vấn đề cụ thể cần được giải quyết ở ba cấp độ khác nhau của việc khởi đầu và giáo dục về truyền thông xã hội.
CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG
9. Ba cấp độ. Sẽ là một điều hợp lý khi bắt đầu khóa học về các vấn đề truyền thông và tiếp tục với ba cấp độ khác nhau.
Ở cấp độ đầu tiên, hay cấp độ cơ bản, sự chú ý sẽ tập trung vào người tiếp nhận, tức là tất cả các độc giả, khán giả và thính giả của các phương tiện truyền thông đại chúng [17]. Bởi vì mỗi học viên đều là người tiếp nhận, nên việc đào tạo từ khía cạnh này phải được cung cấp cho tất cả họ mà không phân biệt.
Đào tạo ở cấp độ thứ hai là "mục vụ", và sẽ được cung cấp cho tất cả các linh mục tương lai, vì nó liên quan đến chức vụ linh mục của họ sau này. Trong chức vụ đó, họ sẽ cần phải có khả năng hướng dẫn các tín hữu sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông đại chúng; họ cũng cần biết cách sử dụng các phương tiện truyền thông một cách hiệu quả nhất cho mục đích tông đồ của mình.
Ở cấp độ thứ ba là đào tạo "chuyên gia", và nó sẽ dành cho "những người đã làm việc trong lĩnh vực truyền thông đại chúng, hoặc những người có tài năng đặc biệt đang được chuẩn bị để làm việc trong lĩnh vực này" [18]. Ở cấp độ thứ ba này cũng bao gồm những người đang chuẩn bị giảng dạy và huấn luyện cho hai cấp độ kể trên.
10. Duy trì các phân biệt. Những gì được giảng dạy ở mỗi cấp độ phải khá chính xác. Phải phân biệt rõ giữa các vấn đề liên quan thực sự tới công cụ truyền thông xã hội và những vấn đề không đụng chạm đến công cụ truyền thông một cách trực tiếp. Những lời khuyên sau đây được đưa ra:
a. Phải rất chú ý đến việc sử dụng ngôn từ chính xác - trong chừng mực mà sự khác biệt về ngôn ngữ cho phép; và phải luôn chú ý tới nghĩa khác nhau của từng tác giả và trường phái. Các thuật ngữ về pháp lý rất cần sự chính xác theo các định nghĩa của chúng trong bộ Giáo Luật.
b. Cách riêng, các nhật báo, báo định kỳ, tin tức, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và những phương tiện thông tin đại chúng có cùng đặc trưng kỹ thuật thì phải được coi là “công cụ truyền thông xã hội”. [19] Cần phân biệt các loại này với những phương tiện diễn tả khác có tầm quan trọng không phù hợp với mô tả (thí dụ như kịch nghệ); và cũng phân biệt những hoạt động truyền thông sử dụng công nghệ tương tự (như xuất bản sách), và những thứ bổ sung cho “công cụ” như đĩa, băng cát-sét, đèn chiếu, truyền thông nhóm, truyền thông thu nhỏ (‘minimedia’).
c. Luôn nhớ mức độ tiến hóa của công nghệ truyền thông xã hội nhanh chóng diễn ra theo xu hướng viễn thông (‘viễn tin học’: telechronics and telematics), trong đó truyền thông đại chúng là đối tượng, là phương tiện vận chuyển và là phản chiếu, do đó không thể chỉ sử dụng một phương tiện đơn lẻ duy nhất trong khóa học, như thể những phương tiện khác không tồn tại (thí dụ như chỉ phim ảnh hay chỉ truyền hình mà không đề cập tới lãnh vực sách in). Tương tự, sẽ là một sai lầm nếu chỉ xử lý khía cạnh nào đó của phương tiện một cách duy nhất (thí dụ như văn hóa và văn minh của “hình ảnh”). Đa phương tiện phải được xử lý như một tổng thể, và tất cả mọi vấn đề và góc cạnh đã được các tác giả nổi tiếng bàn tới phải được xem xét, như “đối thoại toàn cầu”, “làng toàn cầu”, “con người một chiều”, “con người lệ thuộc máy tính”, v.v..
d. Sau cùng, trong những hiện tượng văn hóa xã hội vĩ mô, cần phải dành nhiều chỗ cho những vấn đề liên quan tới xử lý thông tin, tuyên truyền, quảng cáo, dư luận và giải trí, tùy theo mức độ chúng liên quan tới truyền thông đa phương tiện.
11. Đào tạo toàn diện. Ở hai cấp độ đầu của chương trình đào tạo – cơ bản và mục vụ - cần phải đào tạo truyền thông đại chúng như một thể thống nhất, với những giới hạn và nội dung hoàn toàn rõ ràng xác định, và phải chú ý đúng mức tới thực hành sư phạm. Như vậy:
a. Điều cần phải cố gắng trong mỗi trường hợp là tạo thành và gìn giữ nhân cách nơi người tiếp nhận [đa phương tiện], khi họ tiếp nhận các giá trị văn hóa – đạo đức và tâm lý- xã hội mà truyền thông đa phương tiện không ngừng đưa tới, sự tiếp nhận có thể làm cho họ phát triển hay tàn lụi nhân cách. Cần phải giúp chủng sinh trưởng thành như một người Kitô hữu, để khi sử dụng truyền thông đa phương tiện, họ biết sống cuộc đời linh mục một cách phong phú và hữu ích.
b. Cùng với dạy lý thuyết, cần phải cung cấp kinh nghiệm thực hành công cụ truyền thông. Điều này giúp sinh viên đạt được kiến thức về khuynh hướng văn hóa chính trị, tôn giáo và luân lý trong các sản phẩm đương thời khi họ trưởng thành. Nó cũng giúp họ đánh giá một cách thực tế và có phê phán công nghệ hiện đại. Để làm được điều này, chủng viện và các viện đào tạo cần phải được cung cấp công cụ thích hợp.
12. Vững chắc về tín lý. Đào tạo truyền thông xã hội phải được bắt đầu và tiếp tục trong một môi trường tín lý sâu sắc và an toàn, các giáo sư không được hời hợt và thiếu sửa soạn. (Cf. Phụ lục I, số 35). Vì vậy…
a. Giáo sư giảng dạy khóa cơ bản nhập môn sẽ không hữu hiệu nếu chỉ là nhà thực hành hay kỹ thuật viên của một môn truyền thông, mặc dù như thế họ có thể thao tác ở mức độ chuyên nghiệp cao. Họ cần nắm bắt được toàn bộ vấn đề, văn hóa và kỹ thuật, tôn giáo và trần tục, và điều đáng mong mỏi là họ nhận được những điều này qua tham dự khóa học ở cấp độ hai (mục vụ).
b. Các giáo sư dạy ở cấp độ hai đặc biệt phải biết những gì các nhà nghiên cứu có trình độ nhất trong các lãnh vực văn hóa khác nhau đã nghiên cứu và xuất bản. Nhưng trong khi giảng dạy cho sinh viên, họ phải phân biệt những gì là chắc chắn và đã được chứng minh với những gì còn là giả thuyết và mở ra để tranh luận. Họ phải phân biệt giữa những cái còn đang biến chuyển và những gì đã xác định, giữa những cái cá biệt và tổng quát, giữa sự kiện và giải thích theo ý thức hệ. Điều này thực sự quan trọng khi rút ra tiêu chuẩn hành động có tính luân lý và mục vụ từ các lý thuyết và các đề nghị.
c. Điều cần thiết là cần phải quen thuộc với khối lượng dồi dào các giáo huấn của Hội Thánh về truyền thông xã hội, và cần chấp nhận nó một cách tin tưởng và giảng dạy một cách trung thành. Việc dạy bảo này được gom lại trong Phụ lục I gồm một khối lượng lớn tài liệu sẵn sàng để học hỏi và nghiền ngẫm. Trong số các tài liệu quan trọng một giáo sư Công Giáo về truyền thông cần thường xuyên tham khảo: Tông thư Vigilanti Cura của Giáo Hoàng Piô XI về Phim ảnh (1936); hai bài diễn văn về Phim Lý tưởng (1955) và tông thư Miranda prorsus (1957) của Đức Giáo Hoàng Piô XII; Thư của Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Tuần lễ Hội Thảo Nancy (1955); Sắc lệnh (1963); Huấn Thị Mục vụ Communio et Progressio (1971); luật về dụng cụ truyền thông trong Bộ Giáo Luật mới (1983); và các Thông điệp hàng năm của Đức Giáo Hoàng nhân ngày Truyền Thông Thế Giới.
13. Các trợ giúp cần thiết. Thánh Bộ mong muốn rằng trong các khu vực ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, cần soạn thảo và phổ biến những sách thích hợp để dùng trong hai cấp độ đầu tiên về đào tạo truyền thông trong chủng viện. Các sách này sẽ chứa đựng những giáo huấn chính thức của Hội Thánh, cùng với những ghi chú nghiên cứu và thư tịch được tổ chức tốt giới thiệu những tác phẩm đã được xuất bản khắp thế giới về những khía cạnh khác nhau của đề tài liên quan.
CÁC TIÊU CHÍ ĐẶC BIỆT
CẤP ĐỘ ĐẦU TIÊN (CƠ BẢN): ĐÀO TẠO NGƯỜI TIẾP NHẬN THÔNG TIN
14. Mục đích. Nhập môn và đào tạo cơ bản phải khai sáng sinh viên, mài dũa tinh thần phê bình, và định hình lương tâm, để tránh cho họ không trở thành con mồi của những phát biểu hời hợt và sự thao túng của đa phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt khi nó chống lại sự thật và luân lý. Lý tưởng là đào tạo sinh viên chủng sinh một nền tín lý vững chắc và tinh thần khó nghèo, sao cho họ được trang bị tốt “để chịu trách nhiệm về hành vi của mình khi tiếp nhận [sản phẩm] đa phương tiện truyền thông bằng sự chọn lựa tự do và cá nhân … chọn lấy những gì có giá trị về phương tiện đạo đức, kiến thức và nghệ thuật; tránh những gì có thể gây ra thiệt hại tâm hồn cho mình hay bằng gương xấu, có thể làm người khác lạc đường; kiềm chế những gì gây cản trở truyền thông tốt và những gì thúc giục điều xấu”. [20]
15. Sự phân chia trách nhiệm trong đào tạo. Gia đình, [21] lớp giáo lý [22] và trường học [23], đặc biệt là trường Công Giáo, tiểu học, trung học hay đại học nên phối hợp đào tạo cơ bản tiếp nhận truyền thông, vào thời điểm thích hợp. [24] Ở trường, truyền thông đại chúng nên dạy cùng với môn học khác khi có dịp, hay ít là trong các lớp riêng cho môn truyền thông đại chúng ở trường trung học. Trường hợp sinh viên vào chủng viện mà thiếu đào tạo về lãnh vực cơ bản này, thì chủng viện phải bổ sung cho họ.
Trong bất kỳ trường hợp nào, chủng viện không sắp xếp dạy truyền thông vào giữa khóa của môn học bình thường, nhưng tổ chức khóa học riêng, hội thảo, thực tập [25] và nói chuyện … tất cả được thiết kế để dạy các nguyên tắc và chuẩn mực hữu ích: (1) trong việc giúp chủng sinh có thể tự mình thực hiện các chọn lựa về số lượng hay chất lượng – trong các chương trình học có sẵn cho họ chọn; (2) để đảm bảo chủng sinh sẽ sử dụng thời gian nghe nhìn một cách có lợi và có trách nhiệm, và (3) để chủng sinh thực hành tùy theo trình độ và mức trưởng thành đã đạt được, phán đoán một cách có lý luận các thông điệp và các giá trị về phương diện văn hóa, tôn giáo, tiềm ẩn hay minh nhiên mà các chương trình truyền thông đề ra hay cố tình bỏ qua một cách có hệ thống.
16. Khía cạnh văn hóa. Chủng sinh cần hiểu biết các khía cạnh kỹ thuật của từng môn truyền thông, nếu không họ sẽ không hiểu được “ngôn ngữ” của nó một cách chính xác. Họ cũng nên được dạy cẩn thận về cấu trúc kinh tế, chính trị và ý thức hệ trong khu vực quốc gia hay văn hóa khác nhau, vì nó có thể ảnh hưởng tới đa phương tiện truyền thông xã hội ở bình diện sản xuất, phân phối, tiêu thụ hay chi phối thông điệp phát ra từ các quốc gia và nền văn hóa đó. [26]
Nhận thức thẩm mỹ và văn hóa của chủng sinh cũng cần phải được mài dũa, và như thế, ở những cấp độ khác nhau trong bước đường học hỏi, họ sẽ được huấn luyện để nhận ra và trân trọng những hình thức diễn đạt và truyền thông khác: lịch sử, triết học, văn chương, kịch nghệ, nghệ thuật biểu trưng, âm nhạc; để có thể làm sự so sánh cần thiết những quyển sách thích hợp sẽ được và kiểm tra với đa phương tiện truyền thông mà “môi trường học song hành” trình bày ra cho họ.
Sự đào tạo văn hóa và thẩm mỹ, huấn luyện và tinh luyện thị hiếu của chủng sinh sẽ làm cho họ từ chối một cách tự nhiên sản phẩm được dàn dựng kém văn hóa hay không phù hợp về luân lý. [27] Điều hiển nhiên là một nền tảng thần học vững chắc sẽ là một ích lợi lớn cho chủng sinh.
17. Khía cạnh tôn giáo và luân lý. Khía cạnh tôn giáo và luân lý có tầm quan trọng chính trong đào tạo linh mục tương lai hướng về sự tự do cá nhân, lòng xác tín, làm cho họ trở nên gương sáng về mặt truyền thông đại chúng, làm cho mọi người muốn đi theo họ …
a. Các mặt luân lý của truyền thông đại chúng không nên đơn giản chỉ là giảng dạy luân lý đạo đức, cũng không phải chỉ là nói về luân lý tính dục; mặc dù những hệ quả đặc biệt về vấn đề luân lý tính dục đối với đời sống độc thân không thể bỏ qua;
b. Nhấn mạnh đến mặt tích cực, nên trình bày điều cụ thể và mang tính xây dựng hơn là điều có hại và nguy hiểm phải tránh.
c. Về mặt tốt cũng như xấu, nên chú ý không chỉ những gì ảnh hưởng tới lương tâm cá nhân, mà còn sự phù hợp với xã hội đối với sự chọn lựa của một người và ảnh hưởng của nó đối với xã hội. Chủng sinh cũng phải chú ý tới “phán đoán luân lý” nào thuộc về tuyên bố của huấn quyền Hội Thánh. [28]
18. Sẵn sàng tiếp nhận truyền thông. Chủng sinh cần trở nên quen thuộc với thế giới thực mà họ được giảng dạy về nó trong lớp. Họ cần được huấn luyện để “làm chứng cho một nhân cách trưởng thành và phát triển đầy đủ để có thể đi vào quan hệ với người khác mà không có những e ngại quá đáng hay ngây thơ thiếu khôn ngoan, nhưng với một sự thân ái thanh thản và con tim rộng mở.” [29] Để đạt được các mục tiêu này và đề phòng họ áp dụng cách phòng vệ thái quá và thái độ đóng kín đối với truyền thông đa phương tiện, họ nên làm quen – cá nhân hay theo nhóm – với những bản tin đủ loại do đa phương tiện đưa tới về những thảm cảnh và những vấn đề của thế giới thực bên ngoài:
a. Cần quan tâm đến sự khác biệt về tuổi tác của chủng sinh cũng như về trình độ văn hóa và sự phát triển luân lý họ đã đạt được.
b. Giáo dục để họ biết sử dụng đa phương tiện không phải chỉ cho mục đích giải trí, nhưng tìm kiếm thông tin nhiều hơn, để mở mang trí tuệ, mở rộng tầm nhìn, và đạt được sự phát triển hài hòa văn hóa xã hội. Họ cần được rèn luyện, qua các diễn đàn và các việc thực hành tương tự, để phân tích, thảo luận và phán đoán về những màn trình diễn và thông tin trên đa phương tiện, đặc biệt những vấn đề đang được bàn luận hay gây tranh cãi trong lãnh vực tôn giáo, luân lý và văn hóa;
c. Nhớ tới những tiêu chuẩn khôn ngoan và khổ hạnh luôn được các Đức Giáo Hoàng, Công Đồng Vatican II, và bộ Giáo Luật dành cho những người chuẩn bị đời sống thánh hiến. [30]
19. Sự quân bình cần thiết. Sẽ có những tình huống cần phải tìm ra biện pháp khắc phục việc sử dụng quá mức hoặc lạm dụng các phương tiện thông tin đại chúng trong quá khứ. Trong trường hợp này, khóa huấn luyện truyền thông căn bản sẽ được tiến hành trong một bối cảnh kỷ luật cân bằng cá nhân và cộng đồng, được thiết kế để bù cho sự mất cân bằng văn hóa và linh đạo liên quan tới việc sử dụng kéo dài và mất cân bằng truyền thông đại chúng. Thiệt hại cần được sửa chữa có thể phát sinh từ nội dung chương trình chất lượng kém; hay có thể do cung cách trình bày biến “phương tiện” trở thành “thông điệp”.
Để cân bằng việc phí phạm thời gian và đôi khi thậm chí gây tình trạng cô lập bởi những chương trình hời hợt, chủng sinh cần được hướng dẫn để yêu thích và thực hành việc đọc sách, nghiên cứu, thinh lặng và suy niệm. Họ sẽ được khuyến khích và được cung cấp những điều kiện cần cho sự đối thoại cộng đồng và cầu nguyện. Điều này sẽ được dùng để chữa trị sự cô lập và vị kỷ gây ra bởi truyền thông một chiều do những người theo chủ nghĩa vật chất và hưởng thụ tung ra, và sẽ làm sống dậy giá trị tuyệt đối và chân thật phù hợp cho người Kitô hữu và thừa tác vụ linh mục, đặc biệt những giá trị như vâng lời và nghèo khó phúc âm, [31] những giá trị thường bị từ chối và bỏ qua.
CẤP ĐỘ THỨ HAI: ĐÀO TẠO MỤC VỤ
20. Ba mục tiêu. Đào tạo truyền thông xã hội cấp độ hai – đặc biệt về mục vụ - được áp dụng cho mọi chủng sinh không phân biệt họ đang ở những năm triết học hay thần học. Có ba mục tiêu sau đây:
a. Huấn luyện những người có liên quan tới cách thức sử dụng đúng công cụ truyền thông xã hội (nói chung mọi kỹ thuật diễn tả và truyền thông) trong hoạt động mục vụ, khi hoàn cảnh cho phép sử dụng; [32]
b. Huấn luyện để họ trở thành người thầy và người hướng dẫn những người khác (người tiếp nhận truyền thông, nhà giáo dục, mọi người làm việc trong lãnh vực truyền thông đại chúng) bằng giáo lý, giảng thuyết, v.v… và làm nhiệm vụ tư vấn, giải tội, linh hướng.
c. Và trên hết làm cho họ sẵn sàng có những điều chỉnh cần thiết trong hoạt động mục vụ của mình, bao gồm những đòi hỏi do sự hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo và đời sống trong các Hội Thánh địa phương, [33] trong một thế giới được định hình về phương diện tâm lý và xã hội bởi đa phương tiện truyền thông đại chúng, [34] bởi kỹ thuật tin học và tự động học. [35]
21. Đào tạo thực hành. Chức năng không thể thay thế được của thừa tác vụ lời Chúa trong chức vụ tông đồ của linh mục đòi hỏi linh mục tương lai phải được huấn luyện toàn diện về phương diện lý thuyết và thực hành nghệ thuật nói. Họ cũng cần được chỉ dẫn về cách thức mỗi công cụ truyền thông xã hội tác động (“ngôn ngữ” tương ứng cho mỗi loại phương tiện), và quan hệ của nó đối với “thông điệp” nó muốn chuyển tải, và với các đặc trưng của các thành phần tiếp nhận (“thính giả”) khác nhau.
Điều này đạt được bằng những bài học về phương pháp, sẽ được hấp thu sâu sắc hơn trong những buổi phân tích so sánh và phê bình những chương trình đang diễn ra hay được ghi âm và phát hành.
Và hơn thế nữa, chủng sinh nên được cho các bài tập thực hành, có thể với sự trợ giúp của các chuyên gia bên ngoài, về cách sử dụng thiết bị truyền thông: nói bằng micrô, máy quay phim, để ý đặc biệt đến cử hành các nghi thức phụng vụ, phỏng vấn và được phỏng vấn, viết tin tức và tiết mục đặc biệt, viết kịch bản cho truyền thanh và truyền hình, sáng tác văn quảng cáo. Các buổi thảo luận về những điểm diễn xuất hay và dở của cá nhân sẽ có giá trị.
Về thực hành viết báo, nên sử dụng lợi thế khi làm các báo nội bộ của chủng viện, hoặc báo địa phương dù là tôn giáo hay thế tục. Nên sử dụng phương tiện truyền hình hữu tuyến khi có sẵn ở xứ đạo hay trường học. Chương trình phát hành của chủng viện được đặc biệt khuyến khích khi cần thiết và có thể được trợ cấp, vì nó là những cách thức quí giá để kích thích và thực hành khả năng sáng tạo của chủng sinh.
22. Trợ giúp giảng dạy và mục vụ. Khi thực hành sử dụng đa phương tiện truyền thông, cũng cần chú ý tới những phương tiện và kỹ thuật diễn tả và các hình thức truyền thông khác. Kịch nghệ nổi trội hơn cả trong số những hình thức này. Nên cố gắng giúp các linh mục tương lai hiểu và trân trọng nó, cả khi nó xuất hiện trong chương trình truyền thông đa phương tiện [36] và khi nó có cơ hội thể hiện trong chủng viện. Những hoạt động kịch nghệ trong chủng viện đóng góp rất nhiều vào việc tinh luyện khả năng công diễn truyền thông, và đóng góp nhiều vào hoạt động nhóm.
Có nhiều thứ hay bị lãng quên và không nên đánh giá thấp, truyền thông nhóm, truyền thông thu nhỏ (“minimedia”), và các thiết bị nghe nhìn nói chung – đĩa, cát-xét video và audio, phim đèn chiếu, phim video, với giá thành rẻ và dễ sử dụng, vì vậy rất thuận lợi cho công việc giảng dạy và mục vụ, đặc biệt cho việc dạy giáo lý và sinh động nhóm.
23. Truyền thông đại chúng ảnh hưởng tới con người toàn diện. Để đạt được hai mục tiêu khác của chương trình đào tạo mục vụ, điều quan trọng là không được bỏ qua, ít là những điểm chính, các chủ đề văn hóa xã hội như: kỹ thuật học, viễn tin học (“telematics”), nhân loại học văn hóa, xã hội học, kinh tế học, ký hiệu học (“semiology”), ngôn ngữ học, tâm lý học và khoa sư phạm, v.v…- tùy theo mức độ nó liên quan tới truyền thông con người khi sử dụng truyền thông đại chúng và công nghệ mới.
Đồng thời, cần xem xét các hệ quả tôn giáo, luân lý và mục vụ của công cụ truyền thông xã hội. Thật vậy, cần phải luôn nhớ đến “con người toàn diện” mà truyền thông tác động trong tư cách một cá nhân và một thành viên trong xã hội: trước hết là một con người, sau đó là một tín hữu và là một Kitô hữu. Hội Thánh nghĩ đến việc thăng tiến “con người toàn diện” này, đặc biệt ngày nay, nó là mục vụ đúng nghĩa. [37] Công tác mục vụ linh mục là phải dạy cho con người này thông điệp cứu rỗi một cách dễ hiểu, và động viên học sống theo thông điệp ấy.
24. Môi trường thuận lợi cho truyền thông. Đào tạo lý thuyết và thực hành sử dụng công cụ truyền thông xã hội sẽ được tiến xa nếu có một bầu khí truyền thông thuận lợi trong chủng viện giữa các chủng sinh, giữa chủng sinh với giáo sư. Để đạt được kết quả này, cần có những điều kiện sau đây:
- Chủng sinh cần được giáo dục trong một sự tĩnh lặng nội tâm cần thiết cho đời sống tâm linh và trí tuệ, và tách ra khỏi những tiếng động ồn ào của đa phương tiện truyền thông làm hao tổn sức lực;
- Chủng sinh cần được huấn luyện để tham gia vào đối thoại liên cá nhân và nhóm, trong đó họ được huấn luyện để chú ý sử dụng ngôn từ chính xác, phát biểu rõ ràng và lý luận chuẩn. Điều này được sử dụng để cân bằng tính thụ động xảy ra do tiếp nhận hình ảnh và truyền thông một chiều của truyền thông đại chúng.
- Về phần mình, giáo sư khi dạy truyền thông và những môn học khác phải hết sức cẩn thận diễn đạt rõ ràng, mà không hi sinh tính chính xác khoa học, và họ cần phải sử dụng ngôn ngữ của thời nay chứ không phải của những thế kỷ trước; [38]
- Mọi người có liên quan phải đồng tâm nhất trí xác tín rằng “sự hiệp thông là nền tảng và cùng đích của mọi truyền thông”. [39]
25. Các nguồn hỗ trợ và tài nguyên. Các công trình của những tác giả có uy tín cần được cung cấp cho chủng sinh, và họ cũng cần được cung cấp các tạp chí, ấn phẩm định kỳ để họ theo dõi được những suy nghĩ và phát triển mới nhất trong lãnh vực truyền thông. Họ cần được hướng dẫn thảo luận phê bình về những bài tiểu luận và những đề nghị được đưa ra trong các ấn phẩm này, đặc biệt là khi đó là điều có thể áp dụng cho hành vi đạo đức – luân lý của tín hữu và con người nói chung, và cho việc thực hành mục vụ.
Hơn nữa, chủng sinh nên được tạo điều kiện dễ dàng khi nhờ đến sự trợ giúp của các chuyên viên bên ngoài, đặc biệt khi họ chuẩn bị và cử hành “Ngày Thế Giới” [40] – khi tiếp xúc với những người làm trong cơ quan truyền thông của tổ chức Hội Thánh: giáo phận, quốc gia và quốc tế (UCIP đối với sách báo, OCIC đối với phim ảnh, UNDA đối với phát thanh và truyền hình), và với những người làm trong lãnh vực này tại nơi làm việc.
26. Khóa học và kiểm tra đánh giá. Chương trình mục vụ đặc biệt này nên được giảng dạy từng phần, khi có cơ hội, và dạy dần dần trong các môn thần học, triết học, xã hội và nhân văn. Tuy nhiên môn học này không nên chỉ được coi như môn học phụ hay tùy chọn; các bài học và bài tập về truyền thông xã hội nên được đưa vào trong khóa học thần học và triết học như một thành phần cấu tạo của khóa, với bài kiểm tra cuối khóa.
CẤP ĐỘ THỨ BA: ĐÀO TẠO CHUYÊN GIA
27. Các ứng viên. “Những người đã làm việc hay đang chuẩn bị làm việc trong ngành truyền thông” và những người tỏ ra có năng khiếu đặc biệt và có thiên hướng” đối với công việc này, không nên bằng lòng với nền giáo dục mục vụ chung cho mọi người trong chủng viện, nhưng nên tìm kiếm cho mình “khóa học đặc biệt thích hợp hơn”. [41] Về phần mình, các bề trên sẽ quan tâm nhận ra những thanh niên này và giúp họ đi đúng đường phát triển của mình.
Được mời gọi vào công việc đào tạo này không chỉ là những người đang chuẩn bị hoạt động trong lãnh vực báo chí hay phim ảnh, phát thanh hay truyền hình, mà cả những người đang chuẩn bị dạy môn này, hoặc điều hành hay cộng tác với giáo phận hay văn phòng quốc gia về truyền thông xã hội.
28. Các trung tâm. Để đào tạo chuyên gia cho những ngành truyền thông này, có các trung tâm được thành lập do sáng kiến của cơ quan của Hội Thánh hay của giáo dân, với mục đích đào tạo toàn phần hay từng phần các kỹ thuật truyền thông xã hội.
Tuy nhiên, các trung tâm và các viện đang hiện hữu của Hội Thánh có thể thiếu hay không đủ thiết bị hay nhân viên giảng dạy đủ trình độ để cung cấp các nhu cầu đòi hỏi, khi đó các chủng sinh hay linh mục đã tham gia thừa tác vụ có thể tìm kiếm những cơ sở phù hợp ở ngoài xã hội, nơi đó họ có thể được đào tạo thực sự chuyên nghiệp. [42]
Thánh Bộ hi vọng rằng, một người tu sĩ được huấn luyện bằng cách này sẽ có ích cho “mọi người thiện tâm… khi sử dụng các công cụ truyền thông xã hội chỉ vì ích lợi cho con người, mà tương lai của họ càng ngày càng phụ thuộc vào việc sử dụng đúng mức (những công cụ này)”, và đặc biệt đó là lúc mà “nhìn về tương lai, Dân Chúa nhận ra với niềm phó thác tuyệt đối và tình yêu cháy bỏng những kỳ quan được hứa hẹn cho họ trong thời đại không gian” điều khiển từ xa. [43]
-----------------------
Nội dung bản văn tiếng việt còn tiếp...
PHỤ LỤC 1 - CÁC TÀI LIỆU CHÍNH THỨC CỦA GIÁO HỘI ĐỀ CẬP ĐẾN VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO SĨ VỀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
(liệt kê theo thứ tự thời gian)
1. ĐGH PIÔ XI, Thông điệp Ad catholici sacerdoti (20 tháng 12 năm 1935: AAS 28 [1936], 5), về việc cập nhật văn hóa cho giáo sĩ: "[...] linh mục, ngay cả khi bận rộn với những công việc của chức vụ, và luôn luôn nhằm thực hiện chúng tốt hơn, phải tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc và sâu sắc các ngành thần học, bổ sung thêm kiến thức phong phú hơn về những điều thánh thiện vào kho tàng kiến thức mà ngài đã lĩnh hội từ chủng viện. Nhờ đó, ngài sẽ trang bị cho mình để trở thành một nhà giáo dục và hướng dẫn tâm hồn tốt hơn [...]. Để thực hiện chức vụ của mình một cách xứng đáng hơn và để giành được sự tin tưởng và kính trọng của giáo dân, điều này sẽ góp phần rất lớn vào hiệu quả công việc mục vụ của ngài, linh mục nên có di sản học vấn, ngay cả những kiến thức không hoàn toàn thuộc về thánh thiện, mà những người có học vấn thời của ngài thường có [...]. Giáo sĩ không nên bằng lòng với những gì có thể đã đủ trong những thời kỳ khác, mà nên cảm thấy bị thúc ép để đạt đến một tiêu chuẩn văn hóa tương ứng về chiều sâu và phạm vi so với tiêu chuẩn mà những người có học vấn ngày nay thường có so với những người của thời quá khứ."
2. ỦY BAN GIÁO HOÀNG VỀ ĐIỆN ẢNH, Thư của Chủ tịch, Đức Ông Martin J. O'Connor, gửi các giám mục Ý (ngày 1 tháng 6 năm 1953) về các rạp chiếu phim giáo xứ:"
4. [...] Nhiều linh mục, với trách nhiệm chăm sóc đàn chiên và tin rằng họ phải chống lại điện ảnh vô luân bằng các chương trình lành mạnh và giáo dục, đã hy sinh rất nhiều để mở rạp chiếu phim trong giáo xứ hoặc trong trung tâm giải trí liên kết với giáo xứ, nơi mà mọi người, đặc biệt là thanh thiếu niên, có thể đến mà không gặp phải nguy hiểm.
5. Những sáng kiến này chứng tỏ sự tận tâm của các giám mục và giáo sĩ trong việc theo dõi hiện tượng đáng lo ngại của điện ảnh, vốn đã trở thành một nhu cầu thiết yếu đối với một phần lớn dân số, không chỉ ở thành phố mà còn ở các vùng nông thôn nhỏ.
20 [...] Ủy ban giáo phận nên quan tâm đến việc định hướng dư luận và sử dụng tất cả ảnh hưởng của mình để tạo ra ý thức Kitô giáo trong những người xem phim tại các rạp công cộng. Để đạt được mục tiêu này, nhiều thành phố đã thành lập các câu lạc bộ học tập hoặc 'cineforums'. Các hoạt động này nên dựa trên các nguyên tắc đạo đức Kitô giáo và các quy tắc do giáo quyền ban hành, cả trong việc lựa chọn phim để chiếu và trong các quan điểm thảo luận.
25 [...] Hãy chuẩn bị kỹ lưỡng cho 'Ngày Điện Ảnh Công Giáo', trong đó các linh mục sẽ giải thích cho các tín hữu về trách nhiệm của họ trong lĩnh vực này."
3. ĐGH PIÔ XII, Huấn từ I rapidi progressi, gửi các giám mục Ý, về truyền hình (ngày 1 tháng 1 năm 1954: AAS 46 [1954], 18):
"24. [...] Cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết là phải giúp các tín hữu hình thành một lương tâm đúng đắn về trách nhiệm của người Kitô hữu khi sử dụng truyền hình: một lương tâm sẽ cảnh báo họ về những nguy cơ tiềm ẩn và giữ họ chú ý đến các phán quyết của giáo hội về đạo đức của các hình ảnh được truyền qua truyền hình [...]. Vì vậy, chúng tôi không thể khen ngợi đủ những ai, trong khả năng của mình, giúp đỡ các bạn trong công việc tốt lành này."
4. ĐGH PIÔ XII, trong Thông điệp Sacra virginitas (ngày 25 tháng 3 năm 1954: AAS 46 [1954], 161), đề cập đến điện ảnh trong phần ba, chỉ ra rằng đức khiết tịnh hoàn hảo là một đức tính khó khăn, nhấn mạnh những nguy cơ và các biện pháp để giữ vững:
"54. [...] Một số người cho rằng tất cả các Kitô hữu, và đặc biệt là các linh mục, không nên tách biệt khỏi thế giới như trong quá khứ, mà nên hiện diện trong thế giới, và vì vậy cần phải đặt họ vào những tình huống rủi ro và phơi bày họ trước những hoàn cảnh sẽ thử thách đức khiết tịnh của họ, để xem liệu họ có đủ sức mạnh để chịu đựng hay không. Do đó, họ cho rằng các chủng sinh trẻ nên được thấy tất cả mọi thứ, để họ có thể quen nhìn mọi thứ một cách bình thản và từ đó làm cho mình trở nên cứng rắn trước những sự xao động. Vì vậy, họ dễ dàng cho phép các chủng sinh nhìn mọi thứ diễn ra trước mắt họ mà không có bất kỳ quy tắc nào về sự khiêm tốn; thường xuyên đến rạp chiếu phim, ngay cả khi đó là những bộ phim bị cấm bởi giáo hội; lật qua bất kỳ tạp chí nào dù nó có nội dung khiêu dâm [...]. Và họ cho phép điều này vì họ cho rằng công chúng ngày nay đã quen với những chương trình và ấn phẩm như vậy, và ai muốn giúp họ thì phải hiểu cách họ suy nghĩ và nhìn nhận mọi thứ. Nhưng thật dễ hiểu rằng việc giáo dục các chủng sinh trẻ theo cách này và hướng dẫn họ đến sự thánh thiện mà trạng thái của họ đòi hỏi là một sai lầm và nguy hiểm biết bao."
5. THÁNH BỘ GIÁO SĨ, Thư của Tổng trưởng, Hồng y Pietro Ciriaci (ngày 16 tháng 6 năm 1956), gửi Đại hội tại Antwerp (ngày 1 - 2 tháng 8 năm 1956) về chủ đề "Giáo lý cho thời đại chúng ta":
"2. [...] Ai mà không thấy được sự cấp bách và quan trọng của việc này, trong một thế giới thay đổi nơi mà các kỹ thuật hiện đại đã làm cho mọi thứ gần như không thể nhận ra, cần phải xem xét lại những yếu tố cốt lõi điều chỉnh việc giáo dục tôn giáo, chọn ra những yếu tố không thể thỏa hiệp, điều chỉnh phương pháp để đáp ứng các nhu cầu hiện tại, nhu cầu của các tầng lớp và các quốc gia có nền văn hóa kém phát triển, và điều kiện tâm lý của con người ngày nay?"
PHỤ LỤC 2 - CÁC NỘI DUNG
- TRUYỀN THÔNG NHÂN LOẠI
- CÁC PHƯƠNG TIỆN, CÔNG CỤ TRUYỀN THÔNG VÀ GIÁO HỘI
- CÁCH THỨC TIẾP CẬP MỤC VỤ ĐỐI VỚI TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG NÓI CHUNG
- CÁCH THỨC TIẾP CẬN MỤC VỤ ĐỐI VỚI TỪNG PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG CỤ THỂ
------------------------
[1] Cf. Pius XII’s, Miranda prorsus, 24-25.
[2] Cf. Vatican Council II, Dei verbum, 4 and 7.
[3] Cf. Vatican Council II, Inter mirifica, 1
[4] Pius XII, Miranda prorsus, 1.
[5] Pius XI, Vigilanti cura, 1.
[6] Vatican Council II, Inter mirifica, 2
[7] Pastoral Instruction Communio et Progressio, 11
[8] Ibid., 8
[9] Cf. Appendix 1.
[10] Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, 68; cf. Appendix I, no. 18.
[11] Pastoral Instruction Communio et Progressio, 111; cf. Appendix I, no.22.
[12] Communio et Progressio, 183; viết: “huấn thị Mục vụ này đưa ra một vài hướng dẫn sau khi đã cân nhắc tình hình chung đang phổ biến trong truyền thông xã hội. Như mọi điều xảy ra vào lúc này, không cần phải lý luận và trình bày chi tiết nhiều hơn… Hiển nhiên các hướng dẫn và áp dụng thực hành, cũng như hướng dẫn mục vụ phải thích nghi với những điều kiện khác nhau trong những nơi khác nhau – phụ thuộc vào tiến bộ kỹ thuật và tình huống xã hội. Nó sẽ thay đổi tùy theo điều kiện đang thay đổi của phương tiện truyền thông và những luật lệ vốn có… Những người có trách nhiệm lập kế hoạch mục vụ phải uyển chuyển và luôn cố gắng theo kịp các phát minh trong lãnh vực này.
[13] Bản dự thảo thứ hai cho các Giám Mục về văn kiện truyền thông xã hội, được thảo luận trong phòng hội trong phiên họp thứ nhất có tuyên bố sau: “Nesessarium visum est Secretariatus sodalibus peritorum in hac re virorum sententiae obsecundare atque ad designanda nova haec inventa nomen proponere INSTRUMENTA COMMUNICATIONIS SOCIALIS, in posterum etiam in iurisprudentia ecclesiastica et in pastoralibus documentis utendum. Quod nomen, in primis annuit instrumentorum originem cum technicis artibus conexam; deinde actionem instrumentalem qua contentum spirituale, ab auctore humano compositum, aliis communicatur; deinde vim quam celeriter in totam societatem exercet" (Acta Synodalia S.ti Concilii Oecumenici Vaticani II, Vol. V, Periodus Prima, Pars III, p. 375).
[14] Trong chín điều (canons) nói về đề tài (cv. Appendix I, 41) bảy điều sử dụng chính xác từ “công cụ truyền thông xã hội”: 761, 779, 804, 822, 823, 1063 và 1369. Chỉ trong điều 666 và 747 sử dụng từ kém chính xác media.
[15] Những người viết dự thảo hiểu từ xã hội hóa (socialization) theo nghĩa được chấp thuận bởi Gioan XXIII trong thông điệp Mater er Magistra, “Một trong những khía cạnh đặc biệt của thời đại chúng ta là sự xã hội hóa…: con người sống trong một cộng đồng liên hệ với nhau bằng nhiều cách thức tiến bộ, cộng tác với nhau trong nhiều phương cách của đời sống và hoạt động, trong một bối cảnh định chế hóa công hay tư”; từ này sau đó được dùng trong Gaudium et Spes, 6, 25, 24 và 75. Như vậy công cụ truyền thông xã hội được coi như những yếu tố chính trong sự xã hội hóa, đó là một quan điểm, quan điểm khác là sự giao lưu giữa các nhóm con người đã được xã hội hóa mạnh.
[16] Chú ý đã được rút ra từ cách dùng chính xác hơn của hội nghị, không có phản đối cách dùng này, để ngắn gọn, nhiều người thích dùng mass media (và massmediology). Thực sự, cách này được sử dụng trong vài văn kiện như Magisterium và Hướng dẫn này.
[17] Inter mirifica, 16; cf. Appendix I, no.11.
[18] Communio et Progressio, 106 và 111; cf. ibid, no.22.
[19] Hãy luôn nhớ rằng những gì Sắc Lệnh Công Đồng tuyên bố, dạy, hay đề nghị là nói về những công cụ này. Ví dụ: việc sử dụng “các công cụ truyền thông xã hội trong nhiều hình thức làm việc tông đồ”, liên quan tới nhiệm vụ “giảng dạy” (no. 13), và liên quan tới Ngày Thế Giới hàng năm “để củng cố một cách hiệu quả hơn các hình thức tông đồ của Hội Thánh trong lãnh vực truyền thông xã hội” (no.18);
[20] Inter mirifica, 9. Về chủ đề, cf. Appendix I, no 7: 59 sq.: 9: 703; 11: 3, 9, 16; 19; 22:15sq
[21] “Cha mẹ phải quan tâm tới bổn phận coi sóc cẩn thận, để các màn trình diễn, sách vở, tấn công đức tin và luân lý không xâm nhập vào gia đình và cũng không để cho con cái gặp phải những điều này ngoài gia đình của mình” (Inter mirifica, 10). “Cha mẹ và thầy dạy nên thúc giục con cái tự mình quyết định ngay cả khi nhà giáo dục đôi khi dành lấy quyền quyết định cuối cùng” (Communio et Progressio, 67). “Một điều có lợi cho nhà giáo dục là ghi lại một số những chương trình phát, phim, và các ấn phẩm mà giới trẻ họ coi sóc thích. Sau đó họ sẽ thảo luận với chúng và điều này giúp phát triển khả năng phê bình của trẻ. Đối với những sản phẩm khó hay thậm chí gây tranh cãi, cha mẹ nên vào lúc thuận tiện giúp con cái mình khám phá ra các giá trị nhân bản trong sản phẩm và giải thích các chi tiết bên trong bối cảnh chung của tác phẩm” (ibid, 68)
[22] “bổn phận của giáo lý là giáo dục người Kitô hữu phân biệt tính chất và giá trị của những gì được truyền thông đại chúng đưa ra”.
[23] Xem Appendix I, nos. 11: 16-22: 69, 117; 33.
[24] Communio et Progressio, 67; cf. ibid, no.22.
[25] Xem Ratio fundamentalis, no. 89, và Communio et Progressio, 66 (trong Appendix I nos 18 và 22: 66).
[26] “Đào tạo phải bao gồm một sự suy nghĩ thực hành về bản chất đặc biệt của mỗi phương tiện và về chỗ đứng của nó trong cộng đồng địa phương và làm sao để có thể sử dụng nó tốt nhất” (Communio et Progressio, 64)
[27] “truyền thông đa phương tiện có thể đào sâu và làm phong phú văn hóa đương thời… và cũng làm cho nó có thể phục vụ cho những nhu cầu và sự quan tâm khác nhau, bằng cung cách hấp dẫn và chuyên nghiệp, nó có thể tạo ra được kết quả gồm đủ mọi loại cách diễn đạt nghệ thuật. Người ta có thể sử dụng đa phương tiện truyền thông một cách dễ dàng để làm sâu sắc và tinh luyện đời sống văn hóa, bao lâu họ bổ sung việc sử dụng này với sự thực hành suy nghĩ của bản thân và trao đổi quan niệm của mình với người khác” (Communnio et Progressio, 50). “Đa phương tiện là những yếu tố mới trong văn hóa hiện đại … nhưng cùng với việc làm phong phú văn hóa, nó có thể hạ thấp nó. Nó có thể được chơi vì sự vỗ tay khen ngợi của mức văn hóa thấp kém nơi khán giả. Và bởi vì người ta sử dụng nhiều thời gian với nó, nó có thể làm cho con người xao lãng việc theo đuổi văn hóa bậc cao và hữu ích. Chế độ ăn toàn những sản phẩm văn hóa thấp kém trong dân chúng sẽ có khuynh hướng hạ thấp thị hiếu những người đã đạt được một nền văn hóa cao”.
[28] “Sự trung thành với các tiêu chuẩn luân lý… đòi hỏi họ (người tiếp nhận) phải tìm ra không trì hoãn cách thức phân loại do người có thẩm quyền và để lương tâm của mình được hướng dẫn theo” (Inter mirifica, 9). “Phê bình các chương trình phát thanh, truyền hình và phim ảnh là một việc có ích trong giáo dục tôn giáo và văn hóa. Nó giúp cho sự lựa chọn các sản phẩm truyền thông, đặc biệt là đối với gia đình. Kế tiếp theo điều này là sự chú ý đặc biệt đến các phê bình có giá trị thật sự. Những phê bình này bao gồm việc đánh giá giá trị, luân lý và giá trị Kitô Giáo của phim ảnh, phát hình, phát thanh và những bài viết. Những phê bình này được đặt dưới sự coi sóc mục vụ của các giám mục sở tại do một ban được chỉ định” (Communio et Peogressio, 122).
[29] GIOAN PHAOLÔ II, Huấn từ cho nữ tu. L’Observatore Romano, 12th November 1978.
[30] Hãy luôn ghi nhớ, đặc biệt, những tiêu chuẩn được Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI đưa ra trong Sacerdotalis caelibatus, và được Thánh bộ nhắc lại để đưa vào thực hành: xem Appendix I, nos. 4, 16, 23; tổng quát cho sử dụng cá nhân, nos. 7: 154; 8; 12: 4; 17; 39; 41: canon 666.
[31] “Nhiệm vụ của bề trên là phải huấn luyện cho tuổi trẻ sự tin tưởng phó thác vào Đức Kitô và vâng lời thực sự, người đã đòi hỏi sự vâng phục của những người đi theo mình, Người đã tự mình nêu gương nhân đức này và làm cho chính mình trở thành nguyên tắc của sự vâng phục trong chúng ta” (Ratio fundamentalis, no 49). “Hãy để họ học vun trồng tinh thần nghèo khó rất cần thiết trong khi thi hành sứ vụ một cách kiên trì… dù họ không bắt buộc phải từ bỏ của cải vật chất như tu sĩ, nhưng họ nên cố gắng thủ đắc sự tự do thực sự và làm người con ngoan của Chúa, như một người của thần linh, kế thừa tài sản thiêng liêng cần thiết cho mối quan hệ đúng đắn với thế giới và của cải vật chất. Noi gương Chúa Kitô, họ cũng quen với sự từ bỏ những gì là phù phiếm, họ nên có khả năng làm chứng nhân cho tinh thần khó nghèo, đơn giản và khổ hạnh trong đời”.
[32] Xem Appendix I, nos. 7: 151; II: 15; 18: 68; 22: 106 sqq.; 35.
[33] VATICAN COUNCIL II, Ad gentes divinitus, nos. 16, 19, 22; Gaudium et spes, nos. 44, 58, 62; Unitatis redintegratio, nos. 4, 17; Orientalium Ecclesiarum, nos. 4, 5, 6; Pius XII, Encycl. Evangelii praecones, 2nd June 1951: AAS, 43 (1951), pp. 521sqa.; JOHN XXIII, Encycl. Princeps Pastorum, 28th November 1959: AAS, 51 (1959), pp. 843 sqq.; PAUL VI, homily Hi amicti sunt, at canonization of the Uganda Martyrs, 18th October 1964; Insegnamenti, II, pp. 588-589; Motu proprio Ecclesiae Sanctae, 6th August 1966: AAS, 58 (1966), p. 786, III, no. 2; Discourse Greetings to you to the bishops of Asia, 28th November 1970: Insegnamenti, VIII, pp. 1215 sqq.; JOHN PAUL II, Apost. Const. Sapientia christiana, 15th April 1979: AAS, 71 (1979), pp. 472 sqq., 492 (Foreword and art. 68); Discourse Vous êtes to the bishops of Zaire meeting in Kinshasa, 3rd May 1980: Insegnamenti, III, 1, pp. 1084 sqq.; Discourse I am overjoyed, to the bishops of Nigeria, 5th February 1982: Insegnamenti, V, 1, pp. 463 sqq.
[34] “Không có kiến thức này, việc tông đồ hiệu quả không thể thực hiện được trong một xã hội càng ngày càng được định hình bởi đa phương tiện” (Communio et Progressio, 111, điều này gợi nhớ đến Ratio Fundamentalis, par. 4 and no. 88). “Con người hiện đại chìm ngập trong thủy triều truyền thông xã hội khi họ định hình niềm xác tín sâu xa và tỏ thái độ của mình. Đây là niềm xác tín tôn giáo và thái độ thực sự cho dù nó như thế nào”. Nhưng vào ngày 16 tháng 06 năm 1957 CONGREGATION OF THE COUNCIL nêu lên một điểm về vấn đề này: “au sein d'un monde qui se renouvelle, et dont les techniques modernes ont bouleversé la face... d'adapter les méthodes (de l'enseignment religieux) aux conditions psychologiques de l'homme d'aujourd'hui”. PHAOLO VI, trong thông điệp gửi ngày Thế Giới lần thứ 8, 16 tháng năm 1974 (L’Observatore Romano, 17th May 1974), nói về cuộc tìm kiếm phương pháp tông đồ”; và trong bài nói ngày 22 tháng sáu 1974 (L’observatore Romano, 23th June 1974) kêu gọi sự vâng phục đối với “một sự huấn luyện mục vụ: tìm kiếm và đặt câu hỏi làm thế nào để phục vụ hữu hiệu thế giới trong đó chúng ta được kêu gọi và làm việc nhân danh Chúa Kitô; và một sự huấn luyện tín lý… được thích nghi với thời đại, để giúp tiến tới sự am hiểu thế giới tốt hơn”.
[35] “Thế giới truyền thông ngày nay phát triển hết sức phức tạp, sự phát triển mà kết quả tối hậu của nó không thể nào tiên liệu được, và trong thế giới phức tạp này chúng ta gặp không chỉ vài vấn đề, nối kết với sự phức tạp của trật tự thế giới mới về công nghệ thông tin và truyền thông, đan xem với các triển vọng mở ra do sự sử dụng vệ tinh và chinh phục không gian. Chúng ta đang nói về một cuộc cách mạng không những bao hàm sự thay đổi trong hệ thống và kỹ thuật truyền thông mà còn bao gồm toàn bộ thế giới quan văn hóa tinh thần của con người… Báo chí, sách vở, đĩa, phim truyền thanh, truyền hình và máy vi tính phức tạp, những thứ này tiêu biểu cho sự vấn đề quan trọng trong tiếp xúc, có thể nói không phải là duy nhất, giữa người trẻ và thực tại bên ngoài, nơi đó họ sống cuộc sống thường ngày của mình” (GIOAN PHAOLO II, Thông điệp nhân ngày Truyền Thông Thế Giới, 15 tháng tư 1985).
[36] Inter mirifica ‘s (no.14) “Kịch nghệ ngày nay được tiếp cận rộng rãi nhờ phương tiện truyền thông hiện đại” được lặp lại trong communio er progressio (no. 158): “kịch nghệ ngày nay vẫn còn thu hút một số đông khán giả, không chỉ những người đi tới rạp hát mà còn những người theo dõi kịch trên truyền thanh và truyền hình”.
[37] Chính con người phải được cứu thoát: chính nhân loại phải được đổi mới. Vì vậy chính con người là chủ điểm của cuộc thảo luận này, con người toàn diện, với thân xác và linh hồn, tâm hồn và lương tâm, trí tuệ và ý chí” (Gaudium et Spes, 3).
[38] CONGREGATION FOR CATHOLIC EDUCATION, tài liệu về đào tạo linh mục tương lai, 22nd February 1976, nos 76, 77.
[39] Communio et Progressio, 8. Note also no.6: “những kỹ thuật tiên tiến này có mục đích cao quí là làm cho con người tiếp xúc gần gũi hơn”; no.11: “Truyền thông còn hơn là diễn tả ý tưởng và tình cảm. Ở mức độ sâu xa nhất, nó là cho đi chính mình trong tình yêu”; no. 73: “Mục đích của truyền thông xã hội là đẩy nhanh mọi tiến bộ và nâng cao sự hợp tác giữa con người cho tới khi đạt được sự thông hiệp với nhau”; và sau cùng, no. 102: “Hội Thánh hi vọng rằng … phẩm giá của con người, cả người truyền thông và người nhận truyền thông, sẽ được hiểu và tôn trọng. Bằng cách này, ảnh hưởng xã hội lẫn nhau làm nên người láng giềng sẽ dẫn đến một sự hiệp thông thực sự.”
[40] Inter mirifica, 18 và Communio et Progressio: “Mọi người tin vào Chúa được mời gọi dùng một ngày đặc biệt trong năm để cầu nguyện và suy nghĩ về tương lai và những vấn đề về đa phương tiện truyền thông. Họ cũng được kêu mời gặp gỡ với mọi ngành nghề khác” (no.100); “Ngày này được lập ra để tôn vinh những chuyên gia truyền thông và kể khuyến khích họ hợp tác” (no. 167). Xem thêm Phục lục I, nos. 18 và 38.
[41] Xem Communio et Progressio, 106 và 111.
[42] Cũng không loại trừ trường hợp “sinh viên Công Giáo có thể tới những trường dạy những môn thực hành, như… đa phương tiện truyền thông, xã hội học tôn giáo ở chừng mực môn này tôn trọng sự kiện … Chính bề trên sẽ sắp xếp điều này, sau khi lấy ý kiến của sinh viên, căn cứ vào nội qui chủng viện và những tiêu chuẩn đặt ra do Đấng bản quyền, người có thẩm quyền quyết định về điều này” (Ecumenical directory, no. 92, 13th April 1970: AAS, 62 [1970], p. 705.
[43] Xem Inter mirifica, 24 và Communio et Progressio, 187.
Đọc thêm các văn kiện khác của Giáo Hội về Truyền Thông (tại đây)