Chúa Giê-su không phải là nhà truyền giáo kỹ thuật số hàng đầu!
Chúa Giê-su không phải là nhà truyền giáo kỹ thuật số hàng đầu!
Số hóa là cơ hội và thách thức đối với thần học mục vụ
Tác giả bài viết: Andreas Büsch, giáo sư về giáo dục truyền thông và khoa học truyền thông, phụ trách phân xử ngoài tòa năng lực truyền thông của Hội đồng Giám mục Đức tại đại học Công giáo Mainz.
Tóm tắt
Số hóa như một xu hướng xã hội lớn, tất nhiên cũng có tác động đến Giáo Hội và thần học. Các thảo luận đến trong lý thuyết mục vụ và thực hành với một độ trễ thời gian rõ ràng. Câu hỏi về các cơ hội và thách thức đối với việc chăm sóc mục vụ thông qua số hóa, dẫn đến nhu cầu về một lựa chọn tích cực và một phản tỉnh thần học cần thiết cũng như trình độ của các tác nhân mục vụ.
Theo Wikipedia, một nhà truyền bá công nghệ là “một người cố gắng khiến mọi người hào hứng với một công nghệ”[1]
Các ông chủ công nghệ thông tin của các công ty, giám đốc văn phòng thông tin (CIO) tiếng Đức mới, còn được gọi là "nhà truyền bá Phúc Âm kỹ thuật số". Tuy nhiên, chắc chắn Sứ Điệp của Đức Giêsu không đề cập đến một kỹ thuật, mà là một nội dung: Cuộc rao giảng của Người về khởi đầu của Vương quốc Thiên Chúa trong con người Người (và những hệ quả thiết yếu từ nó, x. Mc 1,15). Người LÀ Sứ Điệp của Thiên Chúa, sự tự biểu lộ không thể vượt qua được. Vì vậy, Người là một phương tiện theo nghĩa hẹp của từ này - không phải kỹ thuật số, mà là trực tiếp.
Đó có phải là lời giải thích khả dĩ cho lý do tại sao Giáo Hội và thần học (mục vụ) đang gặp quá khó khăn với số hóa? (1.) Ngược lại, người ta nên hỏi số hóa (2.) với mục vụ và thần học liên quan phải làm gì (3.), những thách thức nào (4.) và những hậu quả khả thể và những nhu cầu hành động phát sinh từ chúng (5).
1. Kỷ thuật số – ma mị mới?
Đôi khi nảy sinh ấn tượng rằng số hóa hầu như không được Giáo Hội thực sự hiểu; phương thức lập luận tốt nhất có thể được mô tả là " “kinh sợ nhẹ nhàng”. Trên thực tế, thuật ngữ rất khó, ở chỗ số hóa - tương tự như thuật ngữ giáo dục - mô tả cả một quá trình và kết quả của nó. Về mặt kỹ thuật, thuật ngữ này, trong khi đó cũng đã xuất hiện trong ngôn ngữ hàng ngày, một mặt mâu thuẫn với việc dữ liệu hóa thuật ngữ công nghệ thông tin, trong đó đề cập đến việc chuyển ngày càng nhiều các khía cạnh khác nhau của cuộc sống chúng ta vào dữ liệu dựa trên máy tính. Mặt khác, đã có nói về hậu số hóa, điều này không đề cập đến hồi ức của các công nghệ tương tự, mà là tính tất yếu thực sự của số hóa, điều mà hầu như thừa (quasi redundant)khi nói về nó.[2]
Cuối cùng, Felix Stalder nói về “văn hóa kỹ thuật số”, theo đó, ông mô tả “sự nhân lên khổng lồ của các khả năng văn hóa”[3] dựa trên phương tiện truyền thông xã hội kỹ thuật số.
Nỗ lực của truy cập thẩm mỹ thông qua trực quan hóa cho thấy rằng, chúng ta phải làm một "vấn đề được biết (known issue)", một vấn đề đã biết: sự miêu tả những gì không thể miêu tả được. Chúng ta không thể nhìn thấy tính kỹ thuật số như vậy, mà là chỉ có những biểu hiện tương tự của nó dưới dạng phần cứng và thiết bị đầu cuối hoặc nền tảng và dịch vụ. Chúng phục vụ như là biểu tượng cho “cái vốn có” của kỹ thuật số. Bởi vì, ở đây không có gì trung gian, không có thiết bị giao diện của con người như thẻ đục lỗ (thẻ nhớ.ND), bàn phím, chuột, điều khiển từ xa, v.v. giữa chúng ta và giao diện người dùng. Điều duy nhất chúng ta không thể nhìn thấy theo nghĩa, là những gì chúng ta vận hành thông qua điều khiển bằng giọng nói hoặc cử chỉ chạm vào. Chúng ta chỉ kinh nghiệm các tác động tương tự, đôi khi ngay lập tức, đôi khi có độ trễ thời gian, chủ yếu là phù hợp, thường là không hoặc thiếu tương quan. Nhưng thực tế là không thấy được - và điều đó làm chúng ta lo lắng! Tuy nhiên, đồng thời, do sự hòa nhập tất yếu vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta, truyền thông, và do đó, kỹ thuật số là bình thường ở khắp mọi nơi.
2. Kỹ thuật số là gì - và ý nghĩa của nó
Hơn thế nữa, nó không chỉ là khía cạnh kỹ thuật thuần túy của việc chuyển đổi dữ liệu hoặc tín hiệu tương tự.[4] Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi rất quan trọng, vì theo định nghĩa, chúng là các giá trị rời rạc, tức là các giá trị được chia độ. Do đó, về mặt kỹ thuật số, không có cái gọi là “một chút”, “khoảng” hoặc “có thể”: Việc thực hiện một đồ thị tương ứng, tốt nhất, sẽ luôn dẫn đến một thang chia kỹ thuật số được chia độ đặc biệt tinh vi..
Hậu quả là “mất đi tính đa nghĩa và tính đa dạng”.[5] Do đó, thông tin tương ứng đối với thông tin kỹ thuật số không chỉ là một phương thức lưu trữ thay thế, mà là một dạng hoàn toàn khác, giống như mọi bản dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác luôn mang theo thời điểm chuyển đổi và do đó thay đổi trong chính nó.
Cơ sở của tất cả những điều này là "ABC nhỏ của khoa học máy tính(ger. kleine ABC der Informatik)":
Thuật toán (A:ger.Algorithmizität), dữ liệu lớn (B: en. Big Data) và trí thông minh được hỗ trợ bởi máy tính (C: ger.computergestützte Intelligenz).[6] Ba lĩnh vực với các chủ đề này đã cung cấp rất nhiều lý do cho một cuộc thảo luận quan yếu về sự phát triển dựa trên nền tảng của hình ảnh con người Kitô giáo và giáo huấn xã hội Công giáo.[7]
Số hóa với xu hướng lớn lao này, thoạt đầu có vẻ thực sự mang tính kỹ thuật, chứa nhiều hàm ý- thu nhỏ, kết nối mạng, tính di động, sự phổ biến của việc làm và giải trí, tiết kiệm, thay thế quyền riêng tư, v.v. - dẫn đến sự biến đổi ngày càng tăng của tất cả các cá nhân trong các lĩnh vực cuộc sống cũng như các lĩnh vực xã hội.
3. Những cơ hội mục vụ
Không bỏ qua một cách ngây thơ những thách thức, thường được gọi là rủi ro, về tính kỹ thuật số, các cơ hội trước tiên nên được đặt tên từ viễn cảnh mục vụ.
Tiêu chí trung tâm của mọi hoạt động của Giáo Hội là lời rao giảng của Chúa Giêsu về Vương quốc của Đức Chúa Trời, điều này trở thành hiện thực giữa chúng ta trong sự Nhập Thể của Người. Bởi vì đó là sự tự mặc khải tuyệt vời của Đức Chúa Trời, Đấng từ trời xuống thế cho loài người chúng ta và cứu chữa chúng ta, để trở nên sự cứu rỗi và bình an. Vì vậy, nguồn gốc của việc nói về Thiên Chúa là sự mặc khải, mục tiêu của nó là trở thành chủ thể của con người.[8]
Trong chừng mực lời nói và hành động này luôn diễn ra trong khuôn khổ văn hóa và xã hội cụ thể, rất quan trọng để đặt vấn đề, liệu có phải sự tồn tại "tiền kỹ thuật số" đối với Giáo Hội, trong một xã hội được định hình bởi kỹ thuật số, có thể là một lựa chọn.
Trong chừng mực, câu hỏi này được trả lời theo hướng phủ định, thì hậu quả đối với việc thực hành của Giáo Hội phải được đặt ra, theo đó hành động của Giáo Hội - trái ngược với nhiều lĩnh vực kinh tế - cho đến nay (dường như) vẫn chưa bị thách thức về mặt tồn tại. Không có cách nào khác giải thích sự bàn luận khá chậm chạp hoặc thay đổi theo thời gian.
Kỷ thuật số cũng mang lại cơ hội tuyệt vời cho hoạt động của Giáo Hội. Có những cân nhắc thần học cũng như mục vụ thực hành, ít nhất là quan điểm vế truyền thông mạng [9] Bởi vì giao tiếp trực tuyến không đồng nghĩa với mức độ phủ sóng trên các phương tiện truyền thông đại chúng với lượng khán giả khổng lồ. Thay vào đó, không đếm được nhiều hơn hoặc ít hơn phần lớn công chúng thể hiện các ngóc ngách văn hóa khác biệt nhất.[10] Điều này có nghĩa là trong văn hóa kỹ thuật số, sự đa dạng phương châm hành động và phát ngôn của các nhóm khác nhau là có thể. Trên mạng xã hội, hành động có nghĩa là đóng góp vào sự hình thành những “công chúng cá nhân”[11] này và có thể gần gũi với mọi người hơn trước.
Điều này cho phép các hình thức hình thành cộng đồng mới thông qua truyền thông kỹ thuật số và các hình thức phục vụ (diakonia}, phụng vụ và thuyết giảng mới. Cuối cùng, phương tiện kỹ thuật số cung cấp một ngưỡng thấp mới thông qua mối liên hệ chủ yếu ẩn danh hoặc bí danh. Bằng cách này, không chỉ những lời đề nghị truyền thông có thể được duy trì trong thời kỳ thay đổi mục vụ từ giáo xứ cổ điển sang các hình thức lớn hơn trong khu vực.[12] Đúng hơn, Giáo Hội có cơ hội lịch sử để thực sự trở thành một cộng đồng (communio) theo đúng nghĩa, thông qua hành động truyền thông của mình[13] - với điều kiện là Giáo Hội chấp nhận số hóa với các nội hàm của nó một cách có phê phán và lạc quan tìm ra các giải pháp thiết thực cho đời sống mục vụ hàng ngày.
Tuy nhiên, trong nội bộ Giáo Hội, một cuộc chiến giữa hai mặt vẫn đang diễn ra: Một mặt, vẫn phải có một lập luận để chấp nhận chủ đề số hóa, chống lại sự quay lưng sợ hãi hoặc vô tri ngây thơ, và chống lại sự cường điệu trực tiếp của truyền thông ở nơi sự hạ giá cùng lúc truyền thông đa phương tiện.
Mặt khác, điều quan trọng là phải phản ánh một cách nghiêm túc về những thách thức không thể chối cãi, vì kỹ thuật số không có nghĩa là giải pháp cho các vấn đề đang tồn tại - ngược lại là trường hợp đặc biệt.
4. Những thách thức thông qua số hóa
Tính kỹ thuật số và truyền thông với các phương tiện kỹ thuật số được đặc trưng bởi nhiều sự mơ hồ; danh sách sau đây không tuyên bố là hoàn hảo:
• Các cơ hội tuyệt vời và mục tiêu tham gia đứng trước những nguy hiểm bị loại trừ do thiếu hụt thiết bị, khả năng tiếp cận, kỹ năng và giáo dục trong việc xử lý các thiết bị kỹ thuật số và các ưu đãi.
• Nếu không có lượng lớn dữ liệu, không thể nhận biết được các mẫu và mức độ liên quan của dữ liệu. Đồng thời, dữ liệu lớn cũng tạo ra một vấn đề bảo vệ dữ liệu lớn, vì nó cho phép tạo ra các hồ sơ cá nhân hóa về hành vi, sở thích, chuyển động, v.v., cuối cùng đe dọa đến quyền tự do của con người.
• Phạm vi của biểu tỏ được lưu trữ kỹ thuật số một mặt là cơ hội, mặt khác, nếu thiếu nhận thức hoặc phản tỉnh về phạm vi này, nó cũng là một mối đe dọa đối với truyền thông.
• Một mặt, điều này áp dụng cho quyền riêng tư: Công chúng cá nhân của phương tiện truyền thông xã hội đòi hỏi- giống như bất kỳ thông tin liên lạc nào - mở ra về cá nhân, do đó, chia sẻ hoặc công bố dữ liệu hoặc thông tin. Tuy nhiên, trong điều kiện của các kênh truyền thông kỹ thuật số nói chung là mở ra cho thế giới, vì thế quyền riêng tư cần thiết cho một cuộc sống có phẩm giá con người về nguyên tắc sẽ bị lâm nguy. Việc tìm kiếm sự cân bằng đầy ý nghĩa chủ quan và phù hợp giữa công và tư đòi hỏi nâng cao năng lực truyền thông và tái cấu trúc liên tục.
• Mặt khác, tầm cao liên quan đến “tính bền bỉ, khả năng đối phó, khả năng mở rộng và khả năng tìm kiếm thông tin” [14] là một mảnh đất màu mỡ đối với truyền thông rối loạn chức năng – đe dọa (trực tuyến), trolling (tạo một bài đăng trực tuyến có chủ ý xúc phạm hoặc khiêu khích với mục đích làm ai đó khó chịu hoặc gây phản ứng tức giận từ họ.ND), ngôn từ thù địch, tin tức giả mạo, v.v.
• Nhiều câu hỏi về chính sách quy định và đạo đức liên quan đến mạng xã hội cũng như các khái niệm cơ bản về thuật toán, dữ liệu lớn và trí thông minh được hỗ trợ bởi máy tính vẫn cần được làm rõ trong một diễn đàn xã hội rộng lớn. Nếu không có điều này, sự phát triển chủ yếu định hướng kinh tế, mà trong đó con người không còn là chủ thể nữa mà là đối tượng của sự phát triển!
Những đòi hỏi nâng cao về mặt khoa học truyền thông cũng như giáo dục truyền thông và triết học này, đặt trước những đòi hỏi liên quan đến thần học mục vụ và cũng đặt điều kiện cho những thách thức nầy. Sự chuyển tải sau đây đến các thực hành cơ bản mục vụ một lần nữa không được nâng lên coi là kết luận:
4.1 Cuộc sống – Phục vụ (Diakonia)
Giống như mọi nền văn hóa khác, nền văn hóa mạng cũng phát triển mới, những hình thức gặp gỡ và truyền thông, những mật mã kỳ lạ, những trò chơi ngôn ngữ và những biểu tượng gây khó chịu cho những người ngoài cuộc. Đối phó với vấn đề này một cách thích hợp đòi hỏi năng lực truyền thông và phương tiện thích hợp để các tác nhân mục vụ có thể tác động đáng tin cậy. Cần phải rõ ràng rằng họ giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung bên trong - ít nhất là cho đến nay: chủ yếu hoạt động trên các bối cảnh và nền tảng thương mại. Và tất nhiên các nhà cung cấp các nền tảng và dịch vụ này có các mã hướng dẫn hoàn toàn khác với “rao giảng” hoặc “phục vụ”. Đó là lý do tại sao việc thiết lập các nền tảng truyền thông kỹ thuật số của Giáo Hội, đã được đề xuất, một mặt, bỏ qua thực tại sống của con người và mặt khác, mâu thuẫn với nhiệm vụ rao giảng là tiếp cận người khác và từ đó “đưa vào” Giáo Hội.[15]
Một vấn đề trọng tâm đối với các cộng đoàn và những nơi tham gia trải nghiệm là, họ hoạt động trực tuyến và ngoại tuyến như thế nào, và sự tham chiếu lẫn nhau của các thế giới sống này được hình thành như thế nào. Vẫn còn mục vụ với cấu trúc chủ yếu theo lãnh thổ, mâu thuẫn lớn với các cơ cấu và tác nhân dựa trên mạng lưới. Về mặt này, phải có khả năng tạo ra sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các hoạt động trực tuyến với kết nối đồng thời và những khả năng kết nối tại chỗ - cái này không thể thay thế hoặc hủy bỏ hoạt động của cái kia!
Bởi vì vấn đề về sự tham gia của mọi người là trọng tâm của Giáo Hội trái ngược với các công ty internet: Có những khả thể truy cập tại chỗ trong bối cảnh cộng đoàn để ngăn chặn sự loại trừ? Làm thế nào, một mặt, năng lực sử dụng và mặt khác, giáo dục truyền thông theo nghĩa năng lực phản hồi, cũng được cổ vũ thuộc về Giáo Hội?
4.2 Đức tin – Rao giảng - Diễn giải trong truyền thông
Trong chừng mực nội dung và hình thức của rao giảng chồng chéo nhau, cần nhận thức về sự khác biệt giữa trực tiếp, cổ điển, truyền thông (đại chúng) và truyền thông kết hợp kỹ thuật số. Sự phát triển cần thiết của các chiến lược để đối phó với sự gia tăng của truyền thông và sự đa dạng của các nền tảng và kênh mà trên đó truyền thông (đức tin) diễn ra đòi hỏi một cuộc bàn luận chuyên nghiệp hóa mới.
Cũng như các hoạt động trực tuyến của Giáo Hội phải tuân thủ các tiêu chuẩn thiết kế và truyền thông hiện hành, khi nói với con người trong thế giới truyền thông kỹ thuật số, cũng cần có các tác nhân Giáo Hội đáng tin cậy trên mạng, họ có thể phát triển các hình thức truyền thông đa phương tiện đáng tin cậy hoặc có thể đồng hành với sự xuất hiện của chúng. Một lần nữa, phát triển cách nhạy cảm với môi trường xã hội đối với các nhóm mục tiêu khác nhau chắc chắn là một thách thức đặc biệt, trong chừng mực các tác nhân mục vụ hầu hết chỉ đến từ một số môi trường xã hội nhất định và do đó trong viễn cảnh lý thuyết-hệ thống với các môi trường xã hôi khác là khả năng kết nối bị giới hạn.
Nguyên tắc trung tâm của truyền thông kỹ thuật số, đối thoại, phải có tác động đến công việc mục vụ, không thể được hiểu là “rao giảng” một chiều theo nghĩa truyền thống một chiều. Coi trọng ý thức đức tin của các tín đồ cũng có nghĩa là sử dụng các kênh kỹ thuật số một cách cẩn trọng và học cách hiểu điều gì đang thúc đẩy mọi người trong “nền văn hóa kỹ thuật số” ở thế kỷ 21.
4.3 Cử hành - phụng vụ
Việc thực hành cơ bản Giáo Hội thứ ba có vẻ thú vị nhất - ít nhất là “trực tuyến” bị nhầm lẫn với “ảo”: Liệu một cộng đồng thể hiện cử hành thực sự mà không có sự hiện diện thể lý không? Trên thực tế, phương tiện hỗ trợ đối với các chương trình phát thanh về các Thánh lễ làm rõ rằng, phương tiện này có thể đảm bảo sự đồng hiện cùng lúc: “Một mặt, mối quan hệ với Thiên Chúa diễn ra giữa Thiên Chúa và những người cử hành tại chỗ và mặt khác giữa Thiên Chúa và những người tham gia có chủ đích. Phương tiện kỹ thuật không phải là nguyên nhân của mối quan hệ này với Đức Chúa Trời, nhưng là một phương tiện trợ giúp và là nguyên nhân gốc rể để những người nhận có thể tham gia một cách thiêng liêng vào việc cử hành của Giáo Hội cùng một lúc. Chất lượng tâm linh của sự tham gia này không phụ thuộc vào phương tiện, nó được ban cho bởi Chúa. Người nhận có thể tham gia một cách có ý thức vào sự kiện qua trung gian hoặc từ chối chấp nhận một phần hoặc toàn bộ - giống như những người đồng cử hành tại chỗ. "[16]
Theo đó, cũng có thể cử hành Phụng vụ Lời Chúa thông qua phương tiện truyền thông trực tuyến, cũng như những thời khắc cầu nguyện chung (ví dụ: Twomplet - một buổi cầu nguyện kinh tối cùng nhau qua Twitter), chưa kể đến các ứng dụng (Apps) cầu nguyện và các ưu đãi kỹ thuật số khác. Trên thực tế, lời cầu nguyện được xây dựng cùng nhau bằng kỹ thuật số trực tuyến[17] có khả năng đáng tin cậy hơn, vì nó gần với cuộc sống của những người đang cầu nguyện hơn là những lời cầu nguyện theo công thức có sẵn.
Cuối cùng, một lĩnh vực rộng lớn cần được xử lý khẩn cấp là tư vấn đau buồn trực tuyến: Nhiều diễn đàn đau buồn thế tục chứng tỏ nhu cầu lớn của con người, để được trải nghiệm sự đồng hành và nâng đỡ trong trải nghiệm ranh giới (Trải nghiệm mà một người phải chịu đựng căng thẳng về tâm lý và / hoặc thể chất rất cao. ND) này.[18] Nhưng ở đây cũng vậy, câu hỏi đặt ra là làm thế nào các hình thức trực tuyến và hình thức truyền thống có thể cùng tồn tại hoặc tồn tại bên nhau- và điều gì với cái nhìn về nguồn nhân sự và vật lực có thể đạt được trong thực hành mục vụ.
Bất kể điều này, tính trung thực về mặt thẩm mỹ cũng sẽ là tiêu chí trung tâm cho các hình thức mới thành công trong thực hành cơ bản thứ ba này. Nó có thể là bất cứ điều gì, chỉ cần không được khoác vào hoặc " cũng trực tuyến"!
5. Cần phải làm gì cho mục vụ (thần học)?
5.1 Phát triển thái độ
Bước đầu tiên hướng tới một cuộc tranh luận thích hợp về kỹ thuật số và những biểu hiện đa dạng của nó là phát triển một thái độ phản tỉnh đối với nó! Điều quan trọng là, để đồng hành với số hóa như một xu hướng lớn không thể đảo ngược một cách nghiêm túc và lạc quan, tức là không thảo luận trước các vấn đề và mối nguy hiểm, nhưng tham gia vào các phát triển lý thuyết và thực tiễn và liên tục chỉ ra những phát triển có vấn đề ảnh hưởng đến xã hội, không phục vụ lợi ích chung, nhưng lợi ích kinh tế và quyền lực của các nhóm và công ty riêng lẽ.
Điều này áp dụng cho việc sử dụng kỹ thuật số riêng hàng ngày cũng như sử dụng chuyên nghiệp trong các bối cảnh mục vụ chuyên nghiệp. Đối với vấn đề thứ hai, cần phải thực hiện việc đào tạo nhân sự mục vụ, sự chia sẻ sư phạm truyền thông bắt buộc, trong chừng mực kỹ thuật số luôn được mã hóa trên các phương tiện truyền thông. Theo đó, giáo dục truyền thông hoặc thăng tiến kỹ năng truyền thông là chìa khóa thiết yếu.
5.2 Cho phép tham gia thông qua giáo dục
"Số hóa về cơ bản được truyền tải thông qua các phương tiện truyền thông ... (do đó) giáo dục trên phương tiện truyền thông phải được thúc đẩy thông qua các ưu đãi phù hợp cho tất cả các nhóm tuổi." [19] Đây không chỉ là "sự tham gia", trong chừng mực nào đó các kênh truy cập, thiết bị và giáo dục như là các điều kiện để tham gia cũng phải được xem xét một cách nghiêm túc. Bởi vì "năng lực truyền thông(là) cơ sở cần thiết cho sự tham gia công bằng".[20]
Trong chừng mực nào đó, tranh luận về trách nhiệm đối với “giáo dục trong thế giới kỹ thuật số”[21] thường nảy sinh với sự phân bổ trách nhiệm qua lại giữa những người có liên quan ở các cấp độ khác nhau - liên bang và tiểu bang cũng như trường học hoặc nhà trẻ và ở nhà của cha mẹ - nên Giáo Hội với mạng lưới đa dạng của mình trong các trường hợp và lĩnh vực xã hội hóa khác nhau từ thời thơ ấu trước đây đến công việc cho người lớn tuổi, góp phần vào việc giáo dục truyền thông toàn diện và bền vững trong chuỗi giáo dục.
Việc thành lập trung tâm thanh toán mù chữ về năng lực truyền thông của Hội đồng Giám mục Đức tại Đại học Công giáo Mainz vào năm 2012 do cam kết tự nguyện trong tài liệu làm việc về đạo đức truyền thông “Đức hạnh và thiết kế”[22] là một bước quan trọng trong hướng đi này. Việc triển khai rộng rãi vẫn đang chờ xử lý. Trong chừng mực các thẫm quyền mục vụ cũng (đồng) quyết định các đề nghị tương ứng, thì cần phải có một quá trình nâng cao nhận thức rộng rãi (xem 5.1) và thực hành thích hợp.
5.3 Định hình cộng đồng như những nơi tham gia tích cực
Vấn đề trung tâm trong quan điểm về những thay đổi xã hội trong thời đại kỹ thuật số là vấn đề tham gia (xem 5.2). Không nghi ngờ gì nữa, điều này không chỉ áp dụng cho các lĩnh vực xã hội khác, mà còn và đặc biệt đối với nội thất của Giáo Hội. Do đó, bước cụ thể đầu tiên sẽ là kiểm tra và phát triển các cơ hội tiếp cận và tham gia tại chỗ, có thể trong các thư viện công cộng Công giáo, trường học, nhà xứ, nơi trú ngụ của người tị nạn và các địa điểm hội họp khác mà Giáo Hội đang hoạt động và hiện diện. Đặc biệt là đối với những người không có khả năng truy cập, những người “ngoại tuyến” do vật chất, nguồn giáo dục hoặc các nguồn khác, do đó, Giáo Hội có thể tạo ra những khả năng tham gia cụ thể. Trong bước thứ hai, điều này có thể bổ sung dựa trên sự hướng dẫn chuyên biệt của học sinh, sinh viên, hoặc bạn đồng trang lứa, họ giúp đỡ trong thái độ phục vụ, giúp tháo gỡ những điều không chắc chắn và trả lời những vấn đề.
Trong bước thứ ba, các cộng đồng nên kiểm tra xem, chúng thực sự rộng mở và có thể truy cập như thế nào - ngoại tuyến cũng như trực tuyến: Có cam kết chuyên nghiệp trực tuyến liên quan đến những người liên hệ, tính khả dụng, thời gian phản hồi, v.v. có thể nhận biết được không?
5.4 Phát triển lòng khoan dung đối với sự mơ hồ
Về trung hạn, một số mâu thuẫn chắc chắn sẽ phải chịu đựng, giữa một bên là những màn trình diễn kiểu cũ và mặt khác là những lời mời chào trực tuyến sang trọng, giữa nhà xứ và mạng xã hội hoặc giữa phụng vụ Lời Chúa và nhóm cầu nguyện trực tuyến.
Không thể có một kế hoạch tổng thể số hóa một cách hợp lý cho Giáo Hội. Nhưng cần có một cuộc bàn luận tận tình về các cơ hội và khả năng của kỹ thuật số và phương tiện kỹ thuật số ở mọi cấp độ của đời sống Hội Thánh.
Ít nhất thì những tác nhân mục vụ, nhận ra các dấu hiệu của thời đại và muốn sử dụng khả năng kỹ thuật số, có quyền tự do và các lựa chọn cần thiết để hành động.
5.5 Phản ánh về văn hóa kỹ thuật số (mục vụ) về mặt thần học
Việc phản ánh về mặt thần học về các nguyên tắc kỹ thuật số và tạo ra những động lực có thể có cho việc chăm sóc mục vụ vẫn còn là một công việc chưa hoàn thành.[23] Các câu hỏi trọng tâm về “tôi”, một thụ tạo trong mạng, “chúng ta” trong cộng đồng và các hình thức dựa trên mạng của chúng, cũng như “Chúa” trong văn hóa trực tuyến, đòi hỏi một sự làm sáng tỏ thần học mới liên quan đến kỹ thuật số.[24]
Tuy nhiên, đây còn là nền tảng cần thiết trước khi xem xét đạo đức truyền thông và sư phạm truyền thông, để có thể hoàn thành sự đồng hành quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Đồng thời, điều quan trọng là phải tìm kiếm những biện minh thần học cho những phát triển mới, nhằm thực thi công lý cho một “nền văn hóa của cái chung và sự tham gia” (Stalder). Một mặt, việc sử dụng giáo huấn xã hội Công giáo, mặt khác, nghiên cứu truyền thông và giáo dục truyền thông, làm cho thần học và Giáo Hội trở nên tương thích với nhiều tác nhân xã hội, về phần họ, muốn giúp định hình tương lai của xã hội.
Điều kiện tiên quyết cần thiết là số hóa tự nó trở thành một đối tượng của đào tạo, giáo dục và tiếp tục đào tạo trong các ngành nghề mục vụ chứ không chỉ có chức năng về mặt giảng dạy hay truyền thông đại chúng. Điều này càng cấp thiết hơn vì cho đến nay vẫn chưa có mục vụ truyền thông thực sự nào được phát triển[25], đặc biệt là không hướng đến cấu trúc đối thoại cơ bản của truyền thông kỹ thuật số.
Điều này cũng bao gồm việc đặt câu hỏi nghiêm túc sự tính ưu tiên của kinh tế, vốn rõ ràng là động lực của sự phát triển xã hội, cùng lúc đó, lời rao giảng của Chúa Giê-su về quyền cai trị của Đức Chúa Trời là một thông điệp giải phóng hoàn toàn trái ngược với việc cải tạo của con người.[26]
Xét về quy mô, Chúa Ki-tô là “Bậc Thầy của truyền thông”: “Khi Nhập thể, Người đã chấp nhận bản chất của những người mà trong tương lai sẽ đón nhận sứ điệp, thể hiện trong lời nói của Người và trong suốt cuộc đời của Người. Người nói với họ từ trái tim, ở ngay giữa họ. Người rao giảng thông điệp thiêng liêng một cách gắn bó, với uy quyền và không thỏa hiệp. Mặt khác, Người giống họ trong loại và cách nói cũng như suy nghĩ, ở đó Người đã nói ra tình trạng của họ. ”[27]
Trong chừng mực nào đó, Đức Ki-tô thực sự không phải là nhà truyền bá Phúc Âm kỹ thuật số hàng đầu, vì Thông Điệp của Người có giá trị bất kể chiến lược số hóa và hiệu quả trải nghiệm người dùng. Thông điệp này truyền tải luôn mới, do đó, giải thích dấu chỉ thời đại bắt nguồn từ nó và rút ra những quyết tâm đúng cho hành động của Giáo Hội là nhiệm vụ còn lại - cũng như và đặc biệt khi đối mặt với sự xuất một nền văn hóa kỹ thuật số đã được nắm bắt.
[1] Xem https://de.wikipedia.org/wiki/Technology_Evangelist (truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2019).
[2] Vgl. Benjamin Jörrissen, Ästhetische Bildung in der postdigitalen Kultur. Antrittsvorlesung am 9. Mai 2016, http://go.wwu.de/r61rn (abgerufen am 10.5.2019).
[3] Felix Stalder, Kultur der Digitalität, Berlin 2016, 10.
[4] Trên thực tế, “đa phương tiện” này cho đến nay đã được rút gọn thành ba kênh cảm giác (tín hiệu âm thanh, quang học hoặc xúc giác); Chưa thể số hóa về vị giác hoặc khứu giác.
[5] Thomas Bauer, Die Vereindeutigung der Welt. Über den Verlust an Mehrdeutigkeit und Vielfalt. Stuttgart 2018.
[6] Katharina Zweig u.a., Dein Algorithmus – meine Meinung! Algorithmen und ihre Bedeutung für Meinungsbildung und Demokratie, hrsg. von der Bayrischen Landeszentrale für Neue Medien (BLM), München 2017, 7.
[7] Ngoài ra, hãy xem Ban Thư ký của Hội đồng Giám mục Đức (ed.), Giáo dục Truyền thông và Tư pháp Tham gia. Động lực từ ủy ban báo chí của Hội đồng Giám mục Đức về những thách thức của số hóa (Arbeitshilfen, số 288), Bonn 2016, cũng như: ders. (ed.), ảo và dàn dựng. Trên đường đi trong xã hội truyền thông kỹ thuật số (Các Giám mục Đức. Tuyên bố của các Ủy ban, Số 35), Bonn 2011.
[8] Stefan Gärtner, Gottesrede in (post-)moderner Gesellschaft. Grundlagen einer praktischtheologischen Sprachlehre, Paderborn u.a. 2000, 171.
[9] Vgl. u.a. Andreas Büsch, Kommunikation im 21. Jahrhundert, in: Gebhard Fürst (Hg.), Katholisches Medienhandbuch. Fakten – Praxis – Perspektiven, Kevelaer 2013, 19–34; ders., Christus, der Meister der Kommunikation – auch digital?! Herausforderungen der Digitalisierung für die Pastoral, in: Anzeiger für die Seelsorge 128 (2019) 2, 9–12.
[10] Vgl. Chris Anderson, The long tail – der lange Schwanz. Nischenprodukte statt Massenmarkt, München 2007.
[11] Jan-Hinrik Schmidt, Social Media, Wiesbaden 2013, 25..
[12] xem. Andreas Büsch, Vom Telefonieren bis zum Posten. Herausforderungen mediengestützter Beratung, in: Hanne Kohl – Ulrich Papenkort (Hg.), Beratung, St. Ottilien 2014, 115–153; hier: 138f.
[13] xem. Büsch, Kommunikation (s.Anm. 9) 26.
[14] Schmidt, Social Media (s.Anm. 11), 35.
[15] xem. Evangelii gaudium 24, kết thúc ở Mt 28,19–20.
[16] xem. Ban thư ký của Hội đồng Giám mục Đức hợp tác với các Viện Phụng vụ của Đức, Áo và Thụy Sĩ (ed.): Buổi thờ phượng Chúa được phát sóng trên đài phát thanh và truyền hình. Hướng dẫn và khuyến nghị (Arbeitshilfen, 169), Bonn 2007, 17.
[17] xem. z.B. das Psalm-Experiment der Speyerer Netzgemeinde da-zwischen, http://go.wwu.de/74dwp (truy cập:10.5.2019)
[18] xem. als Einstieg z.B. www.gute-trauer.de der Aeternitas GmbH. – Wissenschaftlich ist dieses spezielle Handlungsfeld der Online-Beratung bisher nicht bearbeitet
[19] Sekretariat der Deutschen Bischofskonferenz (Hg.), Medienbildung und Teilhabegerechtigkeit (s.Anm. 7), 24
[20] Sekretariat der Deutschen Bischofskonferenz (Hg.), Medienbildung und Teilhabegerechtigkeit (s.Anm. 7), 24
[21] Đây là tiêu đề của báo cáo chiến lược của Hội nghị Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Văn hóa, phiên bản ngày 7 tháng 12 năm 2017,http://go.wwu.de/6xxo5 (truy cập ngày 10/5/2019)
[22] Sekretariat der deutschen Bischofskonferenz (Hg.), Virtualität und Inszenierung (s.Anm. 7), 87
[23] xem. Wolfgang Beck, Kêu gọi đóng góp trí tuệ cho cộng đồng kỹ thuật số. Trong: feinschwarz.net, Ngày 15 tháng 7 năm 2017, https://www.feinschwarz.net/ruf-nach-intellektuellem-input-republica/
[24] Bộ ba này đã tạo cấu trúc cho một hội nghị nội bộ “Bản phác thảo Thần học về Nhân số” ở nhà thờ chính tòa Frankfurt vào ngày 3 tháng 11 năm 2018, trong đó tác giả đã tham gia tích cực về mặt ý tưởng - Để có báo cáo về hội nghị, xem Viera Pirker, Bí mật trong kỹ thuật số. Nhân chủng học và Giáo Hội học trong thời đại dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo, trong: StZ (Steinbeis-Transferzentrum: STZ là từ viết tắt được sử dụng trong các diễn đàn nhắn tin và trò chuyện, ngoài phần mềm mạng xã hội như VK, Instagram, WhatsApp và Snapchat)144 (2019) 133–141.
[25] Cách tiếp cận có thể được tìm thấy ít nhất trong Matthias Wörther, Zukunftsperspektiven der Medienpastoral (ấn phẩm muk(medien und kommunication), 1). Munich 2001, http://go.wwu.de/i1azd (truy cập vào ngày 10 tháng 5 năm 2019) và Ludger Verst, Medienpastoral. Bericht über ein Projekt, Kevelaer 2003.
[26] Về mặt này, có sự xa lánh kỹ thuật số, trong đó chúng ta không còn là chủ thể nữa, mà là sản phẩm và các nhóm mục tiêu của các tập đoàn kỹ thuật số là một bước ngoặt rất mỉa mai đối với ý tưởng tiêu dùng.
[27] Communio et progressio, 11,
Đọc bài viết gốc tại đây