Skip to content
Top banner

Truyền Thông Xã Hội Công Giáo Trong Một Thế Giới Bị Tổn Thương

COMMUNICATION-THEOLOGY
2025-01-30 08:35 UTC+7 54

TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI CÔNG GIÁO TRONG MỘT THẾ GIỚI BỊ TỔN THƯƠNG

LM Anthony Lê Đức, SVD

 

Dẫn Nhập

Vào ngày 8 tháng 9 năm 2024, Dòng Ngôi Lời trên toàn thế giới đã khai mạc Năm Thánh kỷ niệm 150 năm ngày thành lập với chủ đề: “Làm chứng cho Ánh Sáng: Từ khắp nơi, cho mọi người.” Sự kiện này diễn ra không lâu sau Tổng tu nghị lần thứ XIX của hội dòng, với chủ đề: “Ánh sáng phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ: Những môn đệ trung thành và sáng tạo trong một thế giới bị tổn thương” diễn ra tại Nemi, Ý, từ ngày 16 tháng 6 đến ngày 14 tháng 7 năm 2024.

Là một linh mục thuộc Dòng Ngôi Lời, hai sự kiện này mang ý nghĩa đặc biệt đối với tôi. Vì thế trong bài viết này, tôi sẽ lấy nguồn cảm hứng từ hai chủ đề này để suy tư về mục đích và tính chất của truyền thông xã hội Công giáo trong bối cảnh thế giới ngày nay. Bài viết sẽ gồm ba phần, trong đó phần cuối sẽ là phần trọng tâm: (1) Đặt bối cảnh – những vết thương của thế giới hôm nay; (2) Xác định bản chất và mục đích của truyền thông xã hội Công giáo; (3) Đề xuất các yếu tố chính của truyền thông xã hội Công giáo trong một thế giới bị tổn thương.

 

Một Thế Giới Bị Tổn Thương

Trong quá trình chuẩn bị cho Tổng tu nghị XIX, các cộng đoàn Ngôi Lời trên toàn thế giới đã được mời gọi nêu lên và suy tư về những thương tổn ở cấp độ cá nhân, cộng đoàn và toàn cầu. Cá nhân tôi cũng đã tham gia vào việc suy tư này với cộng đoàn của mình tại Thái Lan.[1]  Dù thế giới hôm nay mang trên mình những vết thương chồng chất và đối mặt với vô số thách thức lớn lao, những vấn đề cấp bách nhất có thể được cô đọng thành các chủ đề chính sau đây.

Thương tổn xã hội và văn hóa: Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy rẫy những thương tổn xã hội và văn hóa nghiêm trọng, những vết nứt trong cấu trúc cộng đồng ngày càng rộng ra. Sự bất công mang tính hệ thống và định kiến xã hội đã ăn sâu vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa. Những vấn đề như nạn buôn người, sự tan vỡ của các gia đình, và sự bùng nổ của thông tin sai lệch trên mạng xã hội đang làm gia tăng sự phân hóa và bất ổn. Các giá trị văn hóa truyền thống đang dần bị xói mòn, khi mà những hệ thống tinh thần và đạo đức không còn được tôn trọng, thay vào đó là sự thống trị của chủ nghĩa tiêu thụ và những tư tưởng thế tục hóa. Điều này tạo ra một thế giới cô đơn, đầy rẫy những mảnh vỡ của các cộng đồng bị tách biệt và những tâm hồn mất phương hướng. Trong khi đó, sự hối hả của xã hội hiện đại với những quyến rũ bên ngoài đang che giấu những vết thương sâu thẳm, khiến cho sự kết nối thực sự giữa con người với con người trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.

Thương tổn kinh tế và chính trị: Thế giới ngày nay đang mang trên mình những vết thương sâu sắc từ sự bất bình đẳng kinh tế và chính trị. Các hệ thống kinh tế toàn cầu tiếp tục duy trì sự phân hóa giàu nghèo, trong khi các dân tộc bản địa và những cộng đồng nghèo khổ bị khai thác tài nguyên một cách vô tội vạ, để lại cho họ những hậu quả nặng nề về cả vật chất lẫn tinh thần. Sự tham nhũng lan rộng và tình trạng bất ổn chính trị không ngừng gia tăng, khiến các chính phủ không thể thực hiện trách nhiệm của mình. Tệ nạn này làm cho nhiều người dân phải chịu đựng hoàn cảnh thiếu thốn trầm trọng từ những nhu cầu cơ bản nhất, như lương thực, y tế và giáo dục. Trong bối cảnh này, bạo lực cực đoan ngày càng gia tăng và tình trạng di cư cưỡng bức trở thành nỗi ám ảnh, khi hàng triệu người phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn, chỉ để rơi vào cảnh tị nạn khốn cùng. Các quốc gia tiếp nhận, dù đầy lòng từ thiện, lại đang phải đối mặt với sức ép lớn, từ đó phát sinh những căng thẳng và chia rẽ trong xã hội, làm trầm trọng thêm tình trạng bất ổn toàn cầu.

Thương tổn thể chất và tâm lý: Thế giới ngày nay gánh chịu những vết thương nghiêm trọng về thể chất và tâm lý, mỗi vết thương đều gắn bó chặt chẽ và phản ánh những thách thức của thời đại chúng ta. Nạn đói và suy dinh dưỡng vẫn tồn tại như những lời nhắc nhở đau đớn về sự bất bình đẳng toàn cầu, trong khi xung đột và chiến tranh không chỉ gây tổn thương cho thể xác mà còn làm rạn nứt kết cấu của xã hội. Đại dịch và các cuộc khủng hoảng y tế công cộng tiếp tục phơi bày những lỗ hổng trong hệ thống chăm sóc sức khỏe, để lại vô số cuộc đời tan vỡ. Về tâm lý, những vết thương cũng không kém phần nghiêm trọng. Lo âu, trầm cảm, và cảm giác xa lánh lan rộng làm ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi và mọi khu vực. Nhịp sống hiện đại không ngừng nghỉ, kết hợp với tác động cô lập từ sự kết nối kỹ thuật số quá mức, đã tạo ra một nghịch lý: dù sống trong thời đại của sự giao tiếp chưa từng có, nhiều người lại cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Chấn thương từ chiến tranh, bạo lực và sự di dời kéo dài qua nhiều thế hệ, biểu hiện trong những cộng đồng rạn nứt và những tâm hồn bị tổn thương.

Thương tổn môi trường: Thế giới ngày nay đang chịu những vết thương môi trường sâu sắc đe dọa sự cân bằng mong manh của các hệ sinh thái và sự sống còn của các dạng sống. Biến đổi khí hậu đứng ở vị trí hàng đầu, thể hiện qua sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu, băng ở hai cực tan chảy, và sự gia tăng của các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, hạn hán và lũ lụt. Những hiện tượng này làm gián đoạn sinh kế, khiến các cộng đồng phải di dời và tàn phá hệ thống nông nghiệp, dẫn đến tình trạng thiếu lương thực cho hàng triệu người. Sự mất mát đa dạng sinh học làm gia tăng thêm mức độ tàn phá, khi vô số loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng do nạn phá rừng, sự phá hủy môi trường sống và ô nhiễm, tước đi sự phong phú và khả năng phục hồi tự nhiên của hành tinh. Ô nhiễm càng làm trầm trọng thêm những vết thương này, khi các đại dương ngộp thở dưới sức nặng của rác thải nhựa và bầu không khí dày đặc với khí thải độc hại từ các hoạt động công nghiệp. Đô thị hóa và phát triển không bền vững tiếp tục góp phần vào sự cạn kiệt các tài nguyên thiên nhiên quan trọng, bao gồm nước, đất và rừng, để lại một di sản ngày càng suy giảm cho các thế hệ tương lai. Trong khi đó, việc khai thác nhiên liệu hóa thạch không ngừng bơm khí nhà kính vào bầu khí quyển, làm tăng tốc cuộc khủng hoảng khí hậu và làm sâu sắc thêm những vết thương của hành tinh.

Thương tổn trong Giáo hội: Giáo hội hiện nay đang phải đối mặt với những thương tổn sâu sắc, do những khiếm khuyết đạo đức trong hàng ngũ một số thành viên. Những vụ quản lý tài chính sai lệch, lạm dụng quyền lực, và hành vi sai trái tình dục không chỉ làm xói mòn uy tín mà còn gây tổn thất nghiêm trọng cho niềm tin của tín hữu. Chủ nghĩa thế tục ngày càng gia tăng, tạo ra một khoảng cách lớn giữa Giáo hội và đời sống thực tế của người dân, khiến cho sứ vụ của Giáo hội trở nên mờ nhạt và thiếu gần gũi. Một trong những tác động rõ rệt là sự suy giảm ơn gọi, đặc biệt là ở Châu Âu và Châu Mỹ, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhân sự cho công việc mục vụ. Chủ nghĩa giáo sĩ, với sự nhấn mạnh quá mức vào quyền lực và chức vụ, đã làm giảm sút sứ vụ thực sự của chức tư tế và hạn chế sự tham gia của giáo dân trong các hoạt động của Giáo hội. Hơn nữa, các chia rẽ ý thức hệ trong cộng đồng Giáo hội không những gây ra căng thẳng nội bộ mà còn làm trầm trọng thêm sự phân hóa, tạo ra những bất hòa và mâu thuẫn trong cộng đoàn tín hữu.

Những thương tổn mà thế giới và Giáo hội đang phải chịu đựng ngày nay không giới hạn ở bất kỳ khu vực, cộng đồng, hay nhóm người nào. Những nỗi đau này vượt qua ranh giới địa lý, xã hội, giới tính, và văn hóa. Chúng ảnh hưởng đến cuộc sống của các cá nhân và cộng đồng trên toàn cầu. Vì thế, trong bài giảng Thánh lễ bế mạc Đại hội Thường kỳ của Thượng Hội đồng Giám mục vào ngày 27 tháng 10 năm 2024, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh: “Chúng ta không thể thờ ơ trước những câu hỏi mà con người ngày nay đặt ra, trước những thách thức của thời đại chúng ta, sự khẩn thiết của việc truyền giáo và những vết thương sâu sắc đang làm tổn thương nhân loại. Thưa anh chị em, chúng ta không thể ngồi yên. Một Giáo hội thụ động, vô tình rút lui khỏi cuộc sống và tự giam mình ở rìa thực tại, là một Giáo hội có nguy cơ trở nên mù lòa và thoải mái với chính nỗi bất an của mình.”[2]

 

Bản Chất Và Mục Đích Của Truyền Thông Xã Hội Công Giáo

Khi chúng ta nghe cụm từ “truyền thông xã hội,” nhiều người sẽ nghĩ ngay đến các phương tiện truyền thông như internet, truyền hình, hoặc các thiết bị công nghệ được sử dụng cho việc truyền thông. Mặc dù những công cụ này rất cần thiết trong hoạt động truyền thông, nhưng khi nói đến Truyền Thông Xã Hội Công giáo, chúng ta cần đi sâu hơn và tìm hiểu về những vấn đề cơ bản mang tính nền tảng hơn.  Chúng ta nói đến chính bản chất của truyền thông! Và điều này liên quan đến thần học.

Theo nhà thần học người Đức Gisbert Greshake, “Truyền thông (communication) từ nguyên thủy là một ý tưởng thần học nhất định dựa trên sự mặc khải của Kitô giáo, đề cập đến các nhận thức trọng tâm của Kitô giáo về Thiên Chúa và thế giới.”[3] Greshake tiếp tục giải thích từ “communication” trong cách sử dụng phổ biến và cả trong quan điểm triết học. Theo Greshake, từ “communication” (truyền thông) có nguồn gốc trong từ “mun”, có nghĩa là một cái gì đó giống như một ngưỡng cửa hoặc một khuôn viên. Nguyên nghĩa này có thể được áp dụng cho một phòng chung hoặc một nơi sinh hoạt mà ở đó mọi người đều nương tựa vào nhau.

Quan điểm triết học dựa trên từ “munus” trong tiếng Latinh, có nghĩa là quà tặng. Như vậy, truyền thông muốn nói đến giao tiếp giữa người với người như một hành vi phục vụ tha nhân và trao tặng cho nhau một món quà mà nhờ đó cả hai được hiệp thông với nhau. Nguyên ngữ này hàm ý truyền thông là một quá trình trao tặng lẫn nhau, dẫn đến kết quả cuối cùng là “sự hiệp thông”. Greshake lập luận rằng khái niệm này được xây dựng trên nền tảng “Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng đi vào trần gian và thông ban chính Ngài cho con người trong Đức Giêsu Kitô và trong Quyền năng của Thánh Thần.”[4]

Theo ý niệm này, Thiên Chúa không truyền thông một điều gì đó xa lạ với con người, nhưng là truyền thông chính Ngài qua Đức Giêsu Kitô – Đấng đã mặc lấy xác phàm để trực tiếp gặp gỡ con người và truyền thông về chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự truyền thông chính mình của Thiên Chúa trước hết xảy ra trong nội tại Ba Ngôi, sau đó là đến việc truyền thông cho con người. Vì thế, sự truyền thông chính mình của Thiên Chúa chính là cơ sở cho một nền thần học truyền thông đặc biệt.

Bernard J. F. Lonergan khẳng định rằng truyền thông là một mối quan tâm thần học.[5] Cùng cách hiểu đó, Karl Rahner nói về khái niệm tự truyền thông của Thiên Chúa khi bàn luận thần học. Theo Rahner, như sự nhân cách hóa của tình yêu, Thiên Chúa mặc khải chính mình như một ngôi vị, vừa là quà tặng vừa là người tặng quà (Deus Caritas Est, 1Ga 4:8). Khái niệm này được Đức Cố Hồng y Avery Dulles phát triển thêm khi ngài cho rằng thần học luôn quan tâm đến các thực tại của truyền thông. ĐHY Dulles gọi Kitô giáo là một tôn giáo của truyền thông, vì bản chất sâu xa nhất của Thiên Chúa là một mầu nhiệm tự truyền thông.[6] Mầu nhiệm này bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Mặc Khải và Nhập Thể.

Thứ nhất là mầu nhiệm Ba Ngôi. Hiểu biết của Kitô giáo về Thiên Chúa thông ban chính mình dựa trên bản tính của Thiên Chúa là Đấng có tương quan và hiệp thông với các thụ tạo. Greshake trình bày rõ khái niệm này như sau: “Thiên Chúa không phải là một người du mục đứng yên và đơn độc. Đúng hơn, Thiên Chúa là Đấng ở trong chính Ngài số nhiều: Sự sống, Tình yêu và Truyền thông.”[7] Trong mối tương quan này, Chúa Cha sai Chúa Con và Thánh Thần của Ngài là những ngôi vị có cùng một thiên tính. Ở điểm này, Franz-Josef Eilers, SVD phân tích rằng: “Chúa Cha ‘nói’ với Chúa Con và khi làm như vậy, Người tạo ra và thông ban mọi sự Người là và Người có.” Rồi đến lượt mình, “Chúa Con kêu lên Chúa Cha và dâng hiến trọn vẹn chính mình cho Cha với sự vâng phục hoàn hảo.”[8] Theo cách hiểu tương tự, thần học gia Dòng Tên Carlo Maria Martini bình luận: “Sự sống của Thiên Chúa thân tình tới mức mà chúng ta có thể hiểu được là sự truyền thông sâu xa và liên tục không ngừng giữa các Ngôi Vị.”[9] Nói cách ngắn gọn, ba Ngôi Vị thần linh không ngừng đối thoại với nhau từ thuở vĩnh hằng.

Thứ hai là Mặc Khải. Toàn bộ Kinh Thánh nói về Thiên Chúa là một Thiên Chúa truyền thông – Ngài không ngừng thông truyền với các thụ tạo của mình. Cựu Ước cho thấy sự truyền thông nội tại của Ba Ngôi Thiên Chúa liên quan đến việc tạo dựng loài người cũng như cuộc đối thoại của Thiên Chúa với Ađam và Evà trong Vườn Địa Đàng. Hành động truyền thông này của Thiên Chúa cũng âm vang trong Tân Ước. Chủ đề xoay quanh sự kiện Lễ Ngũ Tuần với biến cố Chúa Thánh Thần ngự đến (Cv 2:1-47) được xem là Thiên Chúa đang truyền thông một lần nữa với con người. Hành động truyền thông trong Lễ Hiện Xuống phát xuất cách tự nhiên từ sự hiệp thông tình yêu của Ba Ngôi. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hợp nhất trong phạm vi truyền thông thần linh. Như Martini đã đề cập, sự tinh túy của Thượng Đế bao gồm cả “sự hiệp thông và truyền thông.”[10]

Vì vậy, biến cố Hiện Xuống biểu lộ khoảnh khắc quý giá khi Thiên Chúa tuôn đổ Thánh Thần xuống trên con người nhằm biến đổi họ trở nên những con người có khả năng truyền thông xuất sắc. Đó cũng chính là thời điểm Thiên Chúa tái khởi xướng và phục hồi mối tương quan thần linh với con người, được đánh dấu bằng sự tuôn đổ Thánh Thần cách nhưng không. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Thánh Linh được trao ban trào tràn cho các Tông Đồ với ơn nói tiếng lạ, khả năng hiểu được những ngôn ngữ khác nhau mà mọi người trên thế giới sử dụng. Lễ Ngũ Tuần chính là sự truyền thông, và do đó, sứ mạng chính của Giáo hội là truyền đạt Sứ điệp ở đâylúc này của mọi thời đại.

Thiên Chúa tác động bằng việc tuôn đổ Thánh Linh vào Lễ Ngũ Tuần biểu trưng cho việc Hội Thánh được thiết lập bởi chính Thiên Chúa và Thánh Linh. Thánh Linh là Đấng đã sai các Tông Đồ ra đi, ban cho Hội Thánh khả năng thông truyền và làm chứng cho Tin Mừng cho đến ngày tận thế. Hồng ân Thánh Thần sẽ mang đến cho Hội Thánh ngày nay một trái tim mới, một ngôn ngữ mới và một khả năng truyền thông mới. Như thế, chúng ta hoàn tất sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa loài người qua đời sống chứng tá và rao giảng Tin Mừng.

Cuối cùng là Nhập Thể. Nền tảng Kinh Thánh của truyền thông Kitô giáo là sự truyền thông Ba Ngôi. Sự hiệp thông Ba Ngôi cho thấy một sự truyền thông thường xuyên và liên tục giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha không ngừng truyền thông với Chúa Con, và Chúa Con truyền thông mọi điều Ngài đã nghe từ Chúa Cha cho thế gian trong sự vâng phục hoàn toàn. Logos (Ngôi Lời – Chúa Con) đã truyền đạt một cách hoàn hảo và thành công sứ điệp của Chúa Cha cho thế giới và con người. Thế nên, Chúa Giêsu được biết đến như là Người Truyền Thông Hoàn Hảo (Perfect Communicator) của Thiên Chúa.

Sứ mạng cơ bản của Chúa Giêsu trên trần gian là mặc khải dung mạo của Chúa Cha, hay nói cách khác, là Ngài bày tỏ cho nhân loại thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho trần gian. Tác giả của Phúc Âm thứ tư khẳng định nền tảng Kinh Thánh về việc Chúa Giêsu là Đấng mặc khải duy nhất về Chúa Cha: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Nguồn mạch tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại đến từ tình yêu của Chúa Cha thông qua mối tương quan Ba Ngôi. Vì thế, tình yêu của Chúa Cha trở nên máu thịt trong biến cố Nhập Thể của Chúa Con. Chúa Cha – Đấng là tình yêu – đã gửi Ngôi Lời đến, Lời thông ban tình yêu và chính bản thân Thiên Chúa. Với tư cách là Đấng mặc khải trọn hảo về Chúa Cha, Chúa Giêsu không chỉ truyền đạt các khái niệm, ý tưởng và chỉ dẫn cho các thính giả của Ngài. Thật ra, như được mô tả một cách hùng hồn trong Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio, sự truyền thông của Chúa Giêsu “không chỉ là sự thể hiện ý tưởng và chỉ ra cảm xúc, nhưng ở mức độ sâu sắc nhất là sự hiến thân trong tình yêu.”[11]

Chúa Giêsu, với tư cách là Đấng mặc khải hoàn hảo về Chúa Cha, đã thông truyền sự “hiến thân vì tình yêu” trong sứ mạng của Ngài ra sao? Tin Mừng Máccô cho chúng ta biết về đời sống thiêng liêng của Chúa Giêsu, trong đó và qua đó, Ngài bày tỏ tình yêu của Chúa Cha. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1:35). Các trình thuật Phúc Âm khác cũng kể lại rằng Chúa Giêsu đã cầu nguyện liên lỉ trước khi đưa ra những quyết định quan trọng trong cuộc đời của Ngài. Vì thế, mọi hành động của Chúa Giêsu luôn thể hiện sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Ngài. Chúa Giêsu cũng dạy cho các môn đệ cách nguyện cầu với Chúa Cha (Mt 6,9-15) để họ có thể kết hợp với Chúa Cha cách mật thiết hơn. Với niềm tín thác thẳm sâu và với thái độ cầu nguyện không ngừng, Chúa Giêsu đón nhận tình yêu của Chúa Cha và đắm mình trong suối nguồn thiêng liêng ấy để bổ sức cho sứ mệnh truyền thông Tin Mừng đến cho mọi người.

Khái niệm thần học truyền thông theo cách hiểu toàn diện tương ứng chặt chẽ với các lĩnh vực khác, bao gồm cả truyền thông xã hội. Điều này không nhất thiết có nghĩa là trong các cuộc thảo luận về thần học truyền thông, thì chủ đề chỉ đề cập đến các phương tiện truyền thông. Theo Franz-Josef Eilers, khái niệm thần học truyền thông “không bắt đầu với phương tiện truyền thông hoặc phương tiện kỹ thuật, nhưng hơn thế, nó bắt đầu với trung tâm của thần học là chính Thiên Chúa. Truyền thông trở thành con mắt để nhìn thấy toàn bộ thần học vì Thiên Chúa của Kitô giáo là một Thiên Chúa truyền thông.”[12] Khái niệm này ngụ ý rằng truyền thông được đưa vào trung tâm của thần học, trở thành một nguyên lý thần học. Ở đây, Thiên Chúa được nhận biết là Thiên Chúa đang thông truyền, trong khi sự mặc khải và công trình cứu độ của Thiên Chúa được xem là những diễn biến truyền thông. Một suy luận hợp lý trong cách hiểu này là “thần học truyền thông xem xét toàn bộ thần học dưới lăng kính truyền thông.”[13]

Để giải thích khái niệm trên mức độ thực tế hơn, có hai cách tiếp cận của thần học truyền thông là truyền thông mục vụ (pastoral communication) và loan báo Tin Mừng (evangelizing communication). Truyền thông mục vụ là hình thức truyền thông nội bộ trong cộng đoàn Kitô giáo và Hội Thánh. Truyền thông mục vụ được hiểu như một phần của thần học mục vụ đề cập đến việc áp dụng thần học vào đời sống con người và xã hội. Điều này được thể hiện trong việc rao giảng, dạy giáo lý, suy niệm Kinh Thánh cũng như các cử hành phụng vụ của Giáo hội. Thực ra, khái niệm truyền thông mục vụ bắt nguồn với hạn từ “pastor” hay mục tử. Mục tử là người chia sẻ và liên hệ với đàn chiên theo phương cách và nội dung khác nhau trong quá trình giao tiếp.

Theo cách hiểu này, “truyền thông mục vụ là thông truyền để chăm sóc mục vụ, dẫn dắt, xây dựng, duy trì và đào sâu đức tin.”[14]  Theo nghĩa hẹp, truyền thông mục vụ là truyền thông cho và với các thành viên trong Giáo hội. Theo nghĩa rộng, kiểu thức mục vụ này đề cập đến mọi hoạt động của Giáo hội và các Kitô hữu.[15]

Truyền thông loan báo Tin Mừng lại là sự truyền thông ngoại tại hướng đến những người bên ngoài Giáo hội, đặc biệt là những người chưa được rửa tội hoặc chưa biết Đức Kitô. Giáo hội không chỉ tồn tại vì cộng đồng tín hữu, mà còn được sai đi để chia sẻ và loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới. Trong Cẩm nang cho Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành có đề cập đến sứ mạng loan báo Tin Mừng như sau:

Hội Thánh hiện hữu để loan báo Tin Mừng. Chúng ta không bao giờ được phép tập trung vào chính mình. Sứ mạng của chúng ta là làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa toàn thể gia đình nhân loại. Tiến trình hiệp hành mang chiều kích truyền giáo rõ nét. Mục đích của tiến trình này là giúp Hội Thánh làm chứng cho Tin Mừng cách hữu hiệu hơn, đặc biệt với những người sống ở vùng ngoại vi của thế giới chúng ta xét về mặt tâm linh, xã hội, kinh tế, chính trị, địa lý và hiện sinh. Theo cách này, hiệp hành là con đường qua đó Hội Thánh có thể hoàn thành cách hiệu quả hơn sứ mạng loan báo Tin Mừng cho thế giới, như nắm men làm cho Nước Thiên Chúa mau đến.[16]

Như vậy, cách thức Giáo hội thi hành sứ mạng của mình với những người bên ngoài hoặc bên lề Giáo hội phản ánh nỗ lực thông truyền Nước Thiên Chúa vượt ra ngoài ranh giới hạn hẹp của Giáo hội. Khái niệm cơ bản của nó dựa trên “Kerygma, loan báo hoặc truyền giáo”,[17] trong đó đối thoại được coi là một phần thiết yếu. Đối thoại dưới ánh sáng của truyền thông loan báo Tin Mừng là “cách thức chuẩn mực và cần thiết cho mọi hình thức truyền giáo của sứ mệnh Kitô giáo, cũng như mọi khía cạnh của nó, cho dù người ta nói về sự hiện diện đơn giản và làm chứng, phục vụ hay rao giảng trực tiếp. Bất kỳ cảm thức truyền giáo nào không được thấm nhuần bởi tinh thần đối thoại như vậy sẽ đi ngược lại những đòi hỏi của nhân bản đích thực và chống lại giáo huấn của Phúc Âm.”[18] 

Văn kiện mang tính bước ngoặt Nostra Aetate khẳng định tầm quan trọng của việc đối thoại với các tôn giáo khác như một cách truyền thông loan báo Tin Mừng. Tuyên ngôn này cung cấp cho người Công giáo một ý thức mới về lệnh truyền mang tính ngôn sứ cần được thực hiện để phát huy các giá trị tâm linh trong các truyền thống tôn giáo khác như Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn giáo và Phật giáo. Tài liệu cũng khơi dậy một cách thế khiêm tốn hơn nhưng có tính sáng tạo để trình bày một cách toàn vẹn những gì Thiên Chúa đã mặc khải cho con người. Mặc dù Nostra Aetate không bỏ qua những khác biệt cơ bản giữa Công giáo và các tôn giáo khác, nhưng bản tuyên ngôn cố gắng chú ý đúng mức đến những đặc điểm chung của các truyền thống tôn giáo khác nhau.

Truyền thông xã hội Công giáo, dù mang tính mục vụ hay loan báo Tin Mừng, đều có một mục đích cốt lõi: thúc đẩy sự tiến bộ của con người và xây dựng sự hiệp thông đích thực giữa mọi người. Như được nêu trong văn kiện Communio et Progressio (1971), sứ mạng này nhằm tăng tốc mọi hình thức phát triển của con người và nâng cao sự hợp tác cho đến khi đạt được tình huynh đệ thực sự.[19] Truyền thông trong truyền thống Công giáo không chỉ đơn thuần là việc truyền tải thông tin, mà còn là việc xây dựng các mối quan hệ dựa trên sự thật, tình yêu và tình liên đới. Dù được công bố từ tòa giảng, chia sẻ tại chợ, phát sóng trên đài phát thanh hay truyền tải qua các nền tảng kỹ thuật số, mục đích của nó vẫn không thay đổi, đó là nuôi dưỡng sự hiệp nhất, khơi gợi sự hiểu biết lẫn nhau và làm chứng cho Tin Mừng theo cách chạm đến trái tim của kinh nghiệm con người.[20] Trong thời đại của sự phân hóa xã hội sâu sắc và các cuộc khủng hoảng toàn cầu, truyền thông xã hội Công giáo trở thành một công cụ thiết yếu để chữa lành vết thương, thu hẹp khoảng cách và thúc đẩy một thế giới công bằng và nhân ái hơn.

 

Truyền Thông Xã Hội Công Giáo Trong Bối Cảnh Đương Đại

Trong phần cuối của bài viết, người viết xin đề xuất các yếu tố chính của truyền thông xã hội Công giáo nhằm đáp ứng bối cảnh ngày nay. Các yếu tố được nêu lên không mang tính chất riêng biệt mà đan xen, thường chồng chéo và củng cố lẫn nhau.

 

Truyền thông ngôn sứ

Trong Sứ điệp Ngày Thế giới truyền thông (NTGTT) năm 2023, Đức Giáo hoàng Phanxicô viết: “Tôi mơ về một nền truyền thông Giáo hội biết để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn, vừa nhẹ nhàng vừa mang tính ngôn sứ, biết tìm ra những cách thức và phương tiện mới cho sứ điệp tuyệt vời mà Giáo hội được mời gọi công bố trong thiên niên kỷ thứ ba.”

Trong truyền thống Do Thái-Kitô giáo, các nhà ngôn sứ đóng vai trò là phát ngôn viên của Thiên Chúa, họ truyền đạt những thông điệp được linh hứng qua sự thông tri với Người. Vai trò trọng tâm của ngôn sứ là kêu gọi sự hoán cải và trung thành với giao ước. Các ngôn sứ nhắc nhở dân chúng về mối quan hệ giao ước với Thiên Chúa, thúc giục họ từ bỏ thờ ngẫu tượng, bất công và suy đồi đạo đức. Lời kêu gọi hoán cải này thường đi kèm với những lời cảnh báo về sự phán xét nếu dân chúng không thay đổi. Ví dụ, ngôn sứ Giêrêmia đã cảnh báo dân Israel về hậu quả của sự bất trung và cuộc lưu đày Babylon sắp đến (Gr 25:1-14).

Một khía cạnh quan trọng khác trong hoạt động ngôn sứ là thúc đẩy công lý xã hội. Các ngôn sứ lên tiếng chống lại áp bức, bóc lột và bất bình đẳng, nhắc nhở người nghe rằng việc thờ phượng Thiên Chúa thực sự bao gồm cả việc đối xử công bằng và nhân ái với tha nhân. Ngôn sứ Amos nổi tiếng với những lời tố cáo bất công xã hội và lời kêu gọi công lý hãy “tuôn trào như nước, và sự công chính như dòng suối chảy mãi không ngừng” (Am 5:24).

Trong khi việc nhận xét về tình trạng đạo đức và xã hội là một chức năng chính, các ngôn sứ cũng tiên đoán các sự kiện tương lai, đặc biệt liên quan đến kế hoạch phán xét và cứu chuộc của Thiên Chúa. Những dự đoán này nhằm khẳng định giá trị của thông điệp ngôn sứ và nhấn mạnh tính cấp bách của sự hoán cải. Các lời ngôn sứ về Đấng Mêsia sẽ đến, như được thấy trong các sách của Isaia và Mikha, đã mang lại hy vọng về sự phục hồi và ơn cứu độ trong tương lai (Is 7:14; 9:6-7; Mk 5:2).

Vai trò kép của việc tiên đoán và nhắc nhở này làm sâu sắc thêm sứ mạng ngôn sứ, liên kết hành vi hiện tại với những hậu quả và lời hứa trong tương lai. Trong thế giới đầy tổn thương của chúng ta, truyền thông mang tính ngôn sứ đòi hỏi sự cam kết đổi mới để nói lên sự thật trước quyền lực, thách thức sự bất công hệ thống và bảo vệ những người bị gạt ra bên lề xã hội.

Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã khẳng định trong Thông điệp Ngày thế giới truyền thông năm 1971: “Giáo hội ý thức mình là một dấu chỉ ngôn sứ về sự hiệp nhất và hòa bình cho toàn thế giới.”[21] Điều này đòi hỏi chúng ta đối mặt với các nguyên nhân gốc rễ của đau khổ, chẳng hạn như nghèo đói, bất bình đẳng và sự suy thoái môi trường, đồng thời kêu gọi một xã hội công bằng và bình đẳng hơn. Bằng cách lấy cảm hứng từ truyền thống ngôn sứ, chúng ta có thể trở thành tác nhân của sự thay đổi, hướng đến một thế giới nơi tình yêu và công lý của Thiên Chúa ngự trị.

 

Truyền thông bằng đức tin và sự sáng tạo

Trong tài liệu của Tổng tu nghị Dòng Ngôi Lời (2024), có nhấn mạnh đến việc các thành viên cần trở thành những môn đệ đầy đức tin và sáng tạo. Những người làm truyền thông Công giáo trước hết và trên hết là những môn đệ của Đức Kitô. Việc làm chứng cho Ánh Sáng phải xuất phát từ đức tin chân thành và sâu sắc. Ơn gọi của một người làm truyền thông Công giáo không được xây dựng trên sự khôn ngoan của con người hay quyền lực thế gian, mà trên đức tin—đức tin vào những chân lý nhận được qua Đức Kitô. Chúng ta được mời gọi loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô với sự tự tin, được neo đậu trong những lời hứa của Ngài.

Thuật ngữ “Ánh Sáng” trong chủ đề Năm Thánh ám chỉ chính Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể. Chứng tá của chúng ta phải chảy ra từ nguồn đức tin sâu sắc này, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, dựa trên giáo huấn của Giáo hội và được nuôi dưỡng bằng mối quan hệ cá nhân với Đức Kitô, Đấng định hình cuộc sống, ơn gọi và sứ mạng của chúng ta. Theo Cha Tổng Quyền Anselmo Ricardo Ribeiro, SVD, “Để trở thành những môn đệ trung thành, chúng ta cần làm sâu sắc đời sống tâm linh theo linh đạo về Chúa Ba Ngôi và truyền giáo.” Hơn nữa, ngài nói: “Trở thành môn đệ trung thành là một món quà và một nhiệm vụ. Đó là một ơn gọi đầy niềm vui và trách nhiệm. Chữa lành những vết thương và mang ánh sáng đến cho thế giới, phản chiếu Ánh Sáng của Đức Kitô, chính là cam kết của một môn đệ trung thành.”[22]

Trong bài huấn từ gửi đến các thành viên Dòng Ngôi Lời ngày 28 tháng 6 năm 2024, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói: “Tất cả những người đã được rửa tội đều được mời gọi trở thành môn đệ truyền giáo, và sự trung thành với ơn gọi này, luôn nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chính là cam kết của chúng ta. Các môn đệ trung thành được nhận ra qua niềm vui của Tin Mừng tỏa sáng trên khuôn mặt họ, qua cách họ sống đời sống của mình và do đó truyền đạt với tha nhân tình yêu mà họ đã nhận được và tiếp tục nhận lãnh mỗi ngày.”[23]

Do đó, điều quan trọng là những người làm truyền thông Công giáo phải yêu mến cả Tin Mừng của Thiên Chúa lẫn Thiên Chúa của Tin Mừng. Đặc biệt đối với các thành viên của Dòng Ngôi Lời, trong hai Tổng tu nghị vừa qua đã nhấn mạnh rằng: “Tên gọi của chúng ta là sứ vụ của chúng ta.” Đáng chú ý, khi Hồng y Charles Maung Bo, cựu Chủ tịch của Hội đồng Giám mục châu Á (FABC), mời Dòng Ngôi Lời đến phục vụ tại Myanmar, ngài đã đặc biệt muốn chúng ta bắt đầu một hoạt động tông đồ Kinh Thánh tại giáo phận của ngài, chỉ đơn giản vì chúng ta là Dòng Ngôi Lời. Như ngài thấy, sứ mạng nằm ngay trong tên gọi của chúng ta!

Bên cạnh sự trung tín, truyền thông xã hội Công giáo hiệu quả cũng cần sự sáng tạo. Sự sáng tạo là cần thiết để kết nối một cách ý nghĩa với nhiêu khán giả đa dạng trên toàn thế giới. Ngày nay chúng ta đang đối mặt với những thay đổi xã hội và văn hóa chưa từng có. Mặc dù con người luôn mong muốn kết nối với nhau, nhưng trong thế giới “siêu kết nối” ngày nay, nhiều người lại cảm thấy bị cô lập, mất phương hướng và tách biệt khỏi xã hội và các cộng đồng đức tin truyền thống. Dường như môi trường kỹ thuật số lại làm gia tăng cảm giác ngắt kết nối này. Nhiều nhóm bị gạt ra bên lề, chẳng hạn như công nhân nhập cư không giấy tờ, người xin tị nạn chính trị và các nhóm yếu thế khác buộc phải tìm đến các không gian kỹ thuật số để chia sẻ, trao đổi và hỗ trợ lẫn nhau một cách an toàn.

Sự sáng tạo trong truyền thông giúp những người làm truyền thông đức tin tiếp cận những cá nhân này một cách gần gũi hơn nhằm giới thiệu cho họ con đường gặp gỡ Đức Kitô giữa những nghi ngờ, khao khát và thách thức hàng ngày của họ. Đây chính là một khía cạnh của con đường hiệp hành, nơi tiếng nói của mọi người đều quan trọng, cho dù được bày tỏ trong các cuộc họp do giám mục giáo phận triệu tập hay trong các không gian kỹ thuật số không có nhân vật thẩm quyền rõ ràng. Chỉ khi Giáo hội sẵn sàng lắng nghe tất cả các tiếng nói khác nhau, Giáo hội mới có thể giải mã chính xác và đầy đủ cảm thức đức tin của Dân Chúa ngày nay.

Trong thời đại mà thông tin trở nên tức thì và vô cùng dồi dào, nhưng sự thật lại khan hiếm, truyền thông Công giáo sáng tạo có thể phá vỡ sự hỗn loạn để trình bày đức tin một cách hấp dẫn và phù hợp. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã kêu gọi những người làm truyền thông “tìm kiếm một phong cách truyền thông cởi mở và sáng tạo, không bao giờ tìm cách làm đẹp cho sự dữ nhưng tập trung vào giải pháp và truyền cảm hứng cho một cách tiếp cận tích cực và có trách nhiệm nơi người nhận.”[24]

May mắn thay, theo văn kiện “Hướng Tới Sự Hiện Diện Tròn Đầy” của Thánh Bộ Truyền Thông, “những ví dụ về sự tham gia trung thành và sáng tạo trên mạng xã hội xuất hiện khắp nơi trên thế giới, từ các cộng đồng địa phương cũng như từ những cá nhân làm chứng cho đức tin của họ trên các nền tảng này, nhiều khi hơn cả các tổ chức Giáo hội.”[25] Tuy nhiên, để giải quyết những vết thương hôm nay, như Cha Ribeiro khuyến khích, chúng ta phải “tích cực, tỉnh thức, đổi mới, siêng năng, tìm kiếm những câu trả lời mới, khám phá những con đường mới.”

 

Truyền thông một cách thiết thực

Thành ngữ “Cưỡi ngựa xem hoa” trong tiếng Việt có thể dùng để nói về hành động của một người chỉ muốn trải nghiệm mọi thứ một cách hời hợt, thấy nhiều thứ nhưng không muốn tiếp cận sâu sát bất kỳ điều gì. Họ không muốn làm bẩn đôi giày của mình khi phải bước xuống đất, lội vào một cánh đồng.

Tại Thái Lan, nơi tôi đang phục vụ, các nhà sư Phật giáo theo truyền thống sẽ bước ra đường mỗi ngày để khất thực. Nghi thức hằng ngày này diễn ra ở nhiều bối cảnh khác nhau—những con đường thành phố nhộn nhịp, các làng quê yên tĩnh, và những khu chợ sầm uất. Việc khất thực không chỉ cung cấp lương thực cho các nhà sư mà còn củng cố mối liên kết mật thiết giữa cộng đồng tu sĩ và giáo dân. Khi các nhà sư đi trong bộ y phục màu vàng nghệ, hành động cúng dường này giúp những người dân phát triển sự tỉnh thức và suy tư, biến đổi việc trao đổi thành một khoảnh khắc tâm linh chung, biểu hiện lòng từ bi và sự phụ thuộc lẫn nhau.

Ngoài khía cạnh tâm linh trong sinh hoạt khất thực và dâng cúng, khi bước đi trên những con đường, các nhà sư còn có cơ hội quan sát đời sống và những khó khăn của người dân, đặc biệt trước tác động của suy thoái môi trường và những thay đổi xã hội. Qua trải nghiệm “có mặt tại hiện trường” này, các vị sư có thể chứng kiến tác động của biến đổi khí hậu, nạn phá rừng, và ô nhiễm đến cảnh quan địa phương và sinh kế của người dân, từ đó họ có thể tích hợp các vấn đề cấp bách này vào sinh hoạt thiền định và các bài giảng mà họ thực hiện với Phật tử. Là những người gắn bó sâu sắc với cộng đồng và thực sự chạm đến mặt đất bằng đôi chân trần, các nhà sư cũng có thể rút ra những phương thức gần gũi với văn hóa, tín ngưỡng địa phương để làm cho thông điệp của mình trở nên gần gũi và thiết thực.

Truyền thông một cách thiết thực như “những người có mặt tại hiện trường” có nghĩa là nói chuyện một cách phù hợp với bối cảnh. Làm chứng cho Ánh Sáng không chỉ là công bố giáo lý mà còn là làm cho Ánh Sáng trở nên hữu hình và biến đổi trong cộng đồng mà chúng ta phục vụ. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tham gia vào đối thoại với người khác. Trong 59 sứ điệp Ngày truyền thông thế giới, đối thoại được nhấn mạnh như một khía cạnh thiết yếu của truyền thông Công giáo. Thuật ngữ này đã xuất hiện 100 lần trong tất cả các thông điệp.

Trong Sứ điệp năm 2025 vừa được công bố, Đức Giáo hoàng Phanxicô viết: “Năm Thánh nhắc nhở chúng ta rằng những người kiến tạo hòa bình ‘sẽ được gọi là con Thiên Chúa’ (Mt 5:9), và bằng cách này, nó truyền cảm hứng cho hy vọng, hướng chúng ta đến nhu cầu truyền thông cẩn trọng, nhẹ nhàng và suy tư, có khả năng chỉ ra các con đường đối thoại.”[26] Đối thoại bao gồm lắng nghe và nói. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã kêu gọi lắng nghe và nói bằng trái tim. Ngài viết: “Tất cả chúng ta đều có đôi tai, nhưng nhiều khi ngay cả những người có thính giác hoàn hảo cũng không thể nghe được người khác. Thực tế, có một loại điếc nội tâm còn tệ hơn cả điếc thể chất. Thật vậy, lắng nghe liên quan đến toàn bộ con người, không chỉ là giác quan thính giác. Nơi lắng nghe thực sự là trái tim.”[27] Cũng cần có thái độ tương tự khi nói, đặc biệt là nói sự thật trong tình yêu, như Thánh Phaolô đã khuyến khích các tin hữu trong cộng đồng sơ khai của ngài (Eph 4:15).

Để truyền thông hiệu quả với người khác, chúng ta cần hiện diện trọn vẹn, trở thành những người có mặt tại hiện trường, để đồng hành cùng người khác trong niềm vui và nỗi buồn, chia sẻ kinh nghiệm sống của họ và nuôi dưỡng một mối liên kết chân thành dựa trên lòng trắc ẩn và sự thấu hiểu. Tài liệu về tham gia trên mạng xã hội “Hướng Tới Sự Hiện Diện Tròn Đầy” khẳng định rằng sự hiện diện tròn đầy không nhất thiết phải giới hạn trong không gian vật lý mà cũng có thể đạt được trong các không gian kỹ thuật số.

Hơn bao giờ hết, các không gian kỹ thuật số đã có ý nghĩa nhân học vì chúng là nơi con người tụ họp và tiêu khiển thời giờ. Ở đó họ kết nối với người khác và tìm kiếm sự đồng hành, kết bạn và tạo kẻ thù, tham gia vào các cuộc tranh luận và đối thoại, phạm tội và tìm kiếm sự tha thứ. Những người làm truyền thông Công giáo, dù là giám mục, linh mục hay các nhân viên mục vụ giáo dân, cần hiện diện trong các không gian đó cùng với mọi người để hiểu được thực tế của thế giới và đưa ra các đáp trả phù hợp với từng tình huống cụ thể. Văn kiện “Hướng Tới Sự Hiện Diện Tròn Đầy” khẳng định rằng các tín hữu mong muốn các nhà lãnh đạo Giáo hội hiện diện cùng họ trong các không gian và nền tảng kỹ thuật số.[28]

Đáng tiếc, đối với nhiều nhà lãnh đạo và nhân viên mục vụ trong Giáo hội, khi nói đến sự hiện diện kỹ thuật số, vẫn còn quá nhiều người chỉ đang “cưỡi ngựa” thay vì hòa mình vào cánh đồng kỹ thuật số nơi mọi người đang tụ họp và hoạt động. Với nhiều người, các không gian kỹ thuật số này quá lộn xộn, quá hỗn loạn, hoặc quá thiếu đẳng cấp để họ có thể dấn thân vào từ những vị trí cao trọng trong Giáo hội của mình.

Thỉnh thoảng tôi vẫn thấy có những thông báo rằng một vị giám mục hay linh mục nào đó đang bị kẻ xấu lợi dụng tên tuổi và hình ảnh để tạo những trang mạng xã hội giả nhằm lừa đảo người dân. Thông báo cũng khẳng định rằng vị giám mục/linh mục đó không hề có một trang mạng xã hội cá nhân nào, vì thế mọi người cần phải thận trọng để không bị kẻ gian lợi dụng lừa đảo. Mỗi lần thấy những bài thông báo này, câu hỏi đầu tiên hiện lên trong đầu của tôi không phải “Ai là kẻ lợi dụng danh tính của lãnh đạo Giáo hội để thực hiện hành vi lừa đảo” mà là: “Tại sao vị lãnh đạo Giáo hội này không thành lập cho mình một trang mạng xã hội mà để cho kẻ xấu ‘làm thế’ cho mình?” Rõ ràng các vị giáo hoàng gần đây cũng như các văn kiện của Giáo hội luôn kêu gọi các lãnh đạo trong Giáo hội hãy hiện diện và loan báo Tin Mừng trên “lục địa kỹ thuật số.”[29] Theo văn kiện “Hướng Tới Sự Trọn Vẹn Tròn Đầy”, “Người trẻ – cũng như các thế hệ lớn tuổi – đang mong muốn được gặp gỡ tại nơi họ đang hiện diện, bao gồm cả trên mạng xã hội, bởi vì thế giới kỹ thuật số là ‘một phần quan trọng trong bản sắc và lối sống của người trẻ.’”[30]

 

Truyền thông truyền cảm hứng

Truyền thông xã hội Công giáo cần có khả năng truyền cảm hứng cho người khác. Vai trò của người nói không chỉ là truyền đạt thông tin mà còn trở thành một lực lượng biến đổi, chiếu sáng một viễn cảnh cánh chung. Truyền thông truyền cảm hứng làm nổi bật và hướng tới tầm nhìn về tương lai, thể hiện những thực tại mới đối lập với những thực tại của trật tự cũ. Theo nhà thần học Tin Lành Walter Brueggmann, “Việc truyền năng lượng gắn chặt với hy vọng. Chúng ta được tiếp thêm năng lượng không phải bởi những gì chúng ta đã sở hữu mà bởi những gì được hứa hẹn và sắp được ban cho.”[31]

Truyền thông đầy năng lượng chống lại tư duy rằng sự biến đổi thực sự chỉ là ảo tưởng. Bằng cách công bố những lời hứa siêu việt và kêu gọi những thay đổi căn bản trong thái độ và hành vi, những nhà truyền thông xã hội Công giáo có thể truyền cảm hứng cho các cộng đồng hình dung và nỗ lực hướng tới những tương lai biến đổi. Công bố để truyền cảm hứng bao gồm việc trình bày những viễn cảnh mới phù hợp với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và kêu gọi sự biến đổi.

Việc công bố Tin Mừng về Đức Kitô, về việc Người nhập thể và mầu nhiệm Vượt Qua của Người, nhằm truyền cảm hứng để mọi người nhận ra khả năng của một trời mới, đất mới—một trật tự hoàn toàn mới, chứ không chỉ là sắp xếp lại những cấu trúc cũ. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi căn bản trong thái độ và hành vi, đặc biệt trong các mối quan hệ giữa chúng ta với nhau, và hơn thế, với toàn thể thụ tạo.

Quan trọng hơn cả, điều này bao gồm việc thúc đẩy một nền văn hóa gặp gỡ, nơi sự đối thoại chân thành và tôn trọng lẫn nhau được ưu tiên. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói: “Truyền thông tốt giúp chúng ta gần gũi hơn, hiểu biết nhau hơn, và cuối cùng là phát triển trong sự hiệp nhất.”[32] Trong thời đại mà sự tiến bộ của công nghệ truyền thông ngày càng gây ra sự cô lập cá nhân, chia rẽ nhóm, và phân cực xã hội cũng như Giáo hội, truyền thông Công giáo cần truyền cảm hứng để mọi người sống ba mối quan hệ cơ bản—với Thiên Chúa, với đồng loại, và với tạo vật—một cách kết nối và toàn diện hơn.

Dù là trong không gian kỹ thuật số hay nơi chốn thể lý, truyền thông Công giáo cần hướng mọi người “tới việc gặp gỡ những con người thực, xây dựng các mối quan hệ thực và tạo dựng cộng đồng thực.”[33] Ở cấp độ thực tiễn, truyền thông truyền cảm hứng đòi hỏi sự chấp nhận các quan điểm đa dạng và trao quyền cho những tiếng nói bị gạt ra ngoài lề.

Việc hợp tác với các nhà khoa học và chuyên gia từ nhiều lĩnh vực theo cách liên ngành sẽ nâng cao uy tín, hiệu quả và tầm ảnh hưởng của truyền thông Công giáo. Chẳng hạn, khi nói về việc chăm sóc thụ tạo, Đức Giáo hoàng Phanxicô đặc biệt chú ý đến việc kết hợp tiếng nói của các nhà khoa học khí hậu, của các cộng đồng bản địa, và cả những lời than khóc của Trái Đất cũng như của người nghèo.[34]

Truyền thông xã hội Công giáo, theo mô hình hiệp hành, phải áp dụng cách tiếp cận “cùng với” thay vì “cho” khi giải quyết các vết thương trong thế giới. Điều này có nghĩa là đối thoại với những người bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi các vấn đề xã hội, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em và người nghèo. Những nhóm dễ bị tổn thương này phải được trao quyền để trở thành một phần của giải pháp thay vì bị áp đặt các giải pháp mà không có sự tham vấn.

 

Truyền thông chỉ trích

Tài liệu “Đạo Đức Trong Truyền Thông” (2000) tuyên bố rằng, những người làm truyền thông Kitô giáo có “một nhiệm vụ ngôn sứ, một ơn gọi: nói lên sự thật chống lại các thần giả và các ngẫu tượng của thời đại – chủ nghĩa vật chất, hưởng thụ, tiêu dùng, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi…”[35] Những người làm truyền thông xã hội Công giáo có thể sử dụng tiếng nói của mình để tố cáo các thực tại tiêu cực, hay theo cách nói của FABC, là “những thực tại mang lại sự chết”. Làm chứng cho Đức Kitô đòi hỏi lòng can đảm để đối mặt với những thực tại đen tối của thế giới. Điều này bao gồm việc nói lên sự thật trước quyền lực. “Sự thật” ở đây là chân lý vĩnh cửu của Chúa Kitô – chính con người của Ngài và Tin Mừng mà Ngài loan báo.

Ngày nay, chúng ta thường nghe những câu như “Tôi đang nói lên sự thật của mình”, hay “Cô ấy đang nói lên sự thật của cô ấy”, hoặc “Bạn có quyền nói lên sự thật của bạn”. Cá nhân tôi không tán thành cách sử dụng từ “sự thật” như thế này. Tôi tin rằng điều này là dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại và tư tưởng hậu sự thật, trong đó thực tại khách quan thường bị gạt sang một bên để nhường chỗ cho các quan điểm chủ quan. Nếu ai cũng có sự thật riêng của mình, thì sự thật là gì? Sự thật trở nên chủ quan, rời rạc và mang giá trị không hơn một ý kiến, từ đó mất đi sức mạnh phổ quát và biến đổi của nó.

Tôi nhận thức được rằng không phải tất cả các “sự thật” đều cùng cấp bậc, và rằng các ý kiến cá nhân là quý giá và cần được lắng nghe một cách tôn trọng. Tuy nhiên, nếu chúng ta không cẩn thận, cách tiếp cận tương đối này có thể làm suy yếu việc theo đuổi sự hiểu biết và công lý chân thực, khi nó ưu tiên các quan điểm cá nhân hơn là một nền tảng chung của sự thật đạo đức và tâm linh.

Trong một bài giảng vào năm 2005, Đức Giáo hoàng Bênêdictô XVI, khi đó vẫn còn là Hồng y, đã nói: “Chúng ta đang xây dựng một chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối không công nhận bất cứ điều gì là dứt khoát, và mục tiêu cuối cùng của nó chỉ đơn giản là cái tôi và những ham muốn của bản thân. Tuy nhiên, chúng ta có một mục tiêu khác: Con Thiên Chúa, là con người thật. Ngài là thước đo của nhân bản chân thật. Đức tin ‘trưởng thành’ không phải là đức tin chạy theo các xu hướng thời thượng và các sự mới lạ; đức tin trưởng thành là đức tin sâu sắc trong tình bạn với Chúa Kitô. Chính tình bạn này mở ra cho chúng ta mọi điều tốt lành và cung cấp cho chúng ta một tiêu chuẩn để phân biệt đúng với sai, sự lừa dối với sự thật.”[36]

Những người làm truyền thông xã hội Công giáo, được bén rễ trong chân lý vĩnh cửu của Chúa Kitô, được mời gọi vượt lên trên tính chủ quan này. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói rằng: “Họ có bổn phận và đặc ân công bố sự thật – chân lý huy hoàng về cuộc sống và vận mệnh con người được mạc khải trong Ngôi Lời nhập thể.”[37]  Điều này có nghĩa nhà truyền thông Công giáo phải can đảm loan báo các chân lý khách quan của Tin Mừng – những chân lý vượt lên trên ý kiến cá nhân và mang lại một tầm nhìn thống nhất cho nhân loại. Khi làm như vậy, họ soi sáng những con đường dẫn đến hy vọng, hòa giải và tự do chân thực trong một thế giới thường bị che mờ bởi sự nhầm lẫn và chia rẽ.

Hình thức truyền thông này, đặc biệt là trong tính chất ngôn sứ, thường bao gồm việc lên án tội lỗi đạo đức và sự bội giáo của thế giới và các xã hội. Cốt lõi của truyền thông tố cáo là mệnh lệnh phải đối đầu với các cấu trúc quyền lực duy trì bất công và bất bình đẳng. Những người phê bình Công giáo buộc những người nắm quyền phải chịu trách nhiệm theo các tiêu chuẩn đạo đức rút ra từ các giáo huấn xã hội Công giáo và các nguyên tắc nhân quyền. Họ thách thức các lối trình thuật, chính sách và thực hành có mục đích làm mờ, bóp méo và che giấu sự thật, đồng thời duy trì bất bình đẳng, gạt ra ngoài lề, áp bức và hủy hoại môi trường. Khi làm như vậy, những người làm truyền thông Công giáo bảo vệ các giá trị Tin Mừng về công lý, lòng trắc ẩn và tình liên đới, đặc biệt với người nghèo và những người dễ bị tổn thương. Việc loan báo Tin Mừng luôn bao gồm một lời mời gọi hoán cải, từ bỏ tội lỗi và tiến đến ánh sáng của Chúa Kitô.

 

Truyền thông qua hành động chứng tá

Truyền thông diễn ra cả bằng ngôn từ và phi phôn từ. Do đó, làm chứng cho Ánh Sáng luôn bao gồm chứng tá bằng hành động. Có một câu nói quen thuộc được cho là của Thánh Phanxicô Assisi: “Hãy rao giảng Tin Mừng mọi lúc, và nếu cần, hãy dùng lời nói.” Tất nhiên, loan báo Tin Mừng qua lời nói là điều không thể thiếu, nhưng cuộc sống của người làm chứng phải là một chứng tá sống động về Tin Mừng mà họ rao giảng. Trong nhiều nền văn hóa, giao tiếp phi ngôn từ đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải thông điệp. Vì thế, cử chỉ và hành động thường chuyển tải những điều mà chỉ lời nói không thể diễn tả hết.

Trong bối cảnh truyền thông xã hội Công giáo, không chỉ dừng lại ở cử chỉ mà còn là hành động. Thánh Têrêsa Avila đã chỉ ra rằng, Chúa Kitô không còn có thân xác, mà chính thân xác của chúng ta là thân xác của Ngài. Đôi mắt của chúng ta là đôi mắt qua đó Ngài nhìn mọi người bằng tình yêu và lòng trắc ẩn. Đôi tay của chúng ta là đôi tay qua đó Ngài xoa dịu và chữa lành các vết thương của tha nhân. Đôi chân của chúng ta là đôi chân qua đó Ngài đến với người nghèo, những người bị xã hội lãng quên, và những tội nhân đang lạc lối.

Những hành động hàng ngày của chúng ta, như lựa chọn phương tiện đi lại, các trang sức chúng ta đeo, các thiết bị điện tử chúng ta sở hữu, quần áo chúng ta mặc, hay thực phẩm chúng ta ăn, đều mang sức mạnh truyền thông to lớn mà không thể xem nhẹ hay bỏ qua. Chúng ta đã thấy điều này trong chuyến thăm của Đức Giáo hoàng Phanxicô đến Indonesia vào năm ngoái. Trong chuyến viếng thăm Jakarta vào tháng 9 năm 2024, Đức Giáo hoàng đã chọn sử dụng một chiếc xe đơn giản, thông thường thay vì đoàn xe và chỗ ở sang trọng mà chính phủ Indonesia đề xuất. Ngài chọn đi bằng một chiếc Toyota Innova màu trắng giản dị, loại xe mà công chúng thường sử dụng, và ở tại Tòa Sứ Thần Vatican thay vì khách sạn cao cấp.[38] Khi ngài vẫy tay chào đám đông, nhiều người nhận thấy chiếc đồng hồ Casio của ngài chỉ là một mẫu đơn giản mà bất kỳ ai cũng có thể mua được. Với ánh mắt của cả thế giới dõi theo mọi hành động, chắc chắn Đức Giáo hoàng muốn những hành động này củng cố thông điệp rộng lớn hơn về lối sống giản dị, từ bỏ sự dư thừa, phù hợp với giáo huấn của ngài về một “Giáo hội nghèo dành cho người nghèo,” bảo vệ môi trường, và thúc đẩy bình đẳng trong xã hội.

Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói một cách khôn ngoan: “Con người hiện đại sẵn sàng lắng nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy, và nếu họ lắng nghe các thầy dạy, đó là vì những thầy dạy này là các chứng nhân.”[39] Mục tiêu của truyền thông là truyền cảm hứng và tác động đến người khác, tạo nên sự hiểu biết và kết nối chung. Trong tiếng Hy Lạp, từ “chứng nhân” là “martyr” (người tử đạo), và nhiều nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lịch sử Kitô giáo là các vị tử đạo, những người có cam kết sâu sắc với Thiên Chúa được thể hiện qua sự hy sinh tột cùng. Dù tử đạo là hình thức làm chứng cao cả nhất của Kitô hữu, mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống một đời sống hy sinh.

Lời mời gọi trở thành môn đệ Kitô giáo bao hàm toàn bộ con người chúng ta, qua đó chúng ta trở thành những kênh chuyển tải tình yêu của Thiên Chúa và những dấu chỉ sống động chỉ dẫn đến Chúa Kitô.[40] Hành động làm chứng của chúng ta, như những hành động truyền thông, phải theo mẫu gương của Thánh Gioan Tẩy Giả, đó là chỉ dẫn đến Chúa Kitô: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3:30). Trong thời đại mạng xã hội, đối với nhiều người, việc trở thành “người ảnh hưởng” qua lời nói và hành động ngày nay thường nhằm tự quảng bá và vì lợi ích cá nhân. Hành động làm chứng của những người làm truyền thông Công giáo không nhằm mục đích thu hút “người theo dõi” hay “tương tác” cho chính mình mà cuối cùng là để hướng đến Chúa Kitô.

 

Kết Luận

Để kết luận, đây là điểm cuối cùng người viết muốn nhấn mạnh. Mỗi tín hữu Kitô giáo đều là một nhà truyền thông Công giáo. Dù là linh mục, tu sĩ, hay giáo dân; dù chúng ta đang giảng lễ, dạy giáo lý, tư vấn mục vụ, làm video trên YouTube, hay đăng một trạng thái trên Facebook, chúng ta luôn luôn và mọi lúc đang nói và hành động như những thành viên của Giáo hội và môn đệ của Đức Kitô. Trong hành trình môn đệ, chúng ta phải truyền thông một cách ngôn sứ, sáng tạo và can đảm để làm chứng cho Ánh Sáng đồng thời góp phần chữa lành những vết thương của thế giới hôm nay.



[1] Dòng Ngôi Lời, Documents of the 19th General Chapter (Rome: SVD Publications, 2024),16-19.

[2] ĐGH Phanxicô, homily at the Mass concluding the Ordinary General Assembly of the Synod of Bishops, ngày 27/10/2024, https://www.vatican.va/content/francesco/en/homilies/2024/documents/20241027-omelia-conclusione-sinodo.html

[3] Gisbert Greshake, “Der Ursprung der Kommunikationsidee,” trong Anh Vu Ta và Franz-Josef Eilers, Social Communication in Theological Perspective: Communication Theology (Manila: Logos Publications, Inc., 2015), 47.

[4] Ibid., 48.

[5] Bernard Lonergan, Method in Theology (Toronto: University of Toronto Press, 1972), 255.

[6] Avery Dulles, The Craft of Theology: From Symbol to System (Dublin: Crossroad, 1992), 22.

[7] Anh Vu Ta and Franz-Josef Eilers, Social Communication in Theological Perspective: Communication Theology (Manila: Logos Publications, Inc., 2015), 48.

[8] Franz-Josef Eilers, Communicating in Community: An Introduction to Social Communication (Manila: Logos Publications, Inc., 2009), 46.

[9] Ibid.

[10] Carlo Maria Martini, Communicating Christ to the World (Diliman: Claretian Publications, 1994), 21.

[11] Vatican II, Communio et Progressio, 1971, http://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/pccs/documents/rc_pc_pccs_doc_23051971_communio_en.html, số 11.

[12] Franz-Josef Eilers, “Communication Theology:  Some Considerations,” trong Franz Josef Eilers, ed. Church and Social Communication in Asia: Documents, Analysis Experiences. 2nd ed. (Manila: Logos Publications, Inc., 2008), 174.

[13] Virgilio F. Ciudadano, Jr, Social Communication Formation in Seminaries and Schools of Theology: An Investigation (Manila: Logos Publications, Inc., 2015), 107.

[14] Ibid., 14.

[15] Franz-Josef Eilers, Communicating in Ministry and Mission: An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication (Manila: Logos Publications, Inc., 2003), 34.

[16] Hội đồng Giám mục Việt Nam, “Cẩm nang cho Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành,” https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cam-nang-cho-thuong-hoi-dong-giam-muc-ve-tinh-hiep-hanh-42941

[17] Ibid., 210.

[18] Secretariat for Non-Christians, “The Attitude of the Church towards the Followers of Other Religions: Reflection and Orientations on Dialogue and Mission,” quoted in Stephen B. Bevans and Roger P. Schroeder, Constants in Context: A Theology of Mission For Today (Quezon City: Claretian Publications, 2004), 378.

[19] Communio et Progressio, số 73.

[20] Communio et Progressio, số 1.

[21] ĐGH Phaolô VI, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông, 1971, https://www.vatican.va/content/paul-vi/en/messages/communications/documents/hf_p-vi_mes_19710325_v-com-day.html.

[22] Dòng Ngôi Lời, Documents of the 19th General Chapter, 6.

[23] Ibid., 70.

[24] ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông, 2017, https://www.vatican.va/content/francesco/en/messages/communications/documents/papa-francesco_20170124_messaggio-comunicazioni-sociali.html#:~:text=LI%20World%20Communications%20Day%2C%202017,Trust%20in%20our%20Time%20%7C%20Francis&text=Access%20to%20the%20media%20%E2%80%93%20thanks,instantly%20and%20spread%20it%20widely.

[25] Thánh Bộ Truyền Thông, Towards Full Presence: A Pastoral Reflection on Engagement with Social Media, 2023, https://www.vatican.va/roman_curia/dpc/documents/20230528_dpc-verso-piena-presenza_en.html, số 2.

[26] ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông, 2025, https://www.vatican.va/content/francesco/en/messages/communications/documents/20250124-messaggio-comunicazioni-sociali.html#:~:text=LIX%20World%20Communications%20Day%2C%202025,Pet%203%3A15%2D16)

[27] ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông, 2022, https://www.vatican.va/content/francesco/en/messages/communications/documents/20220124-messaggio-comunicazioni-sociali.html#:~:text=LVI%20World%20Communications%20Day%2C%202022,ear%20of%20the%20heart%20%7C%20Francis&text=Dear%20brothers%20and%20sisters%2C,experiencing%20events%20and%20meeting%20people.

[28] Thánh Bộ Truyền Thông, Towards Full Presence, số 1.

[29] ĐGH Bênêdictô XVI, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông, 2009, https://www.vatican.va/content/benedict-xvi/en/messages/communications/documents/hf_ben-xvi_mes_20090124_43rd-world-communications-day.html#:~:text=Life%20is%20not%20just%20a,we%20find%20happiness%20and%20joy.

[30] Towards Full Presence, no. 1.

[31] Walter Brueggemann, The Prophetic Imagination (Minneapolis: Fortress Press, 2001), 14.

[32] ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông 2014, https://www.vatican.va/content/francesco/en/messages/communications/documents/papa-francesco_20140124_messaggio-comunicazioni-sociali.html#:~:text=Good%20communication%20helps%20us%20to,and%20learn%20from%20one%20another..

[33] Thánh Bộ Truyền Thông, Towards Full Presence, số 24.

[34] ĐGH Phanxicô, Laudato Si’, 2015, https://www.vatican.va/content/francesco/en/encyclicals/documents/papa-francesco_20150524_enciclica-laudato-si.html.

[35] Vatican, Ethics in Communication, 2000, https://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/pccs/documents/rc_pc_pccs_doc_20000530_ethics-communications_en.html#:~:text=Ethics%20in%20Communications%2C%20June%202%2C%202000&text=1.,of%20nature%20beyond%20human%20control, số 31.

[36] Mass «Pro Eligendo Romano Pontifice»: Homily of Card. Joseph Ratzinger, https://www.vatican.va/gpII/documents/homily-pro-eligendo-pontifice_20050418_en.html

[37] ĐGH Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông, 2001.

[38] Yustinus Paat and Mita Amalia Hapsari, “Pope Francis Rides Regular Toyota, Waves to Crowd from Open Window,” Jakarta Globe, ngày 2/9/2024, https://jakartaglobe.id/news/pope-francis-rides-regular-toyota-waves-to-crowd-from-open-window#:~:text=Pope%20Francis%20Rides%20Regular%20Toyota%2C%20Waves%20to%20Crowd%20from%20Open%20Window,-Yustinus%20Paat%2C%20Mita&text=Jakarta.,Embassy%20in%20Jakarta%20on%20Tuesday.

[39] ĐGH Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 1975, https://www.vatican.va/content/paul-vi/en/apost_exhortations/documents/hf_p-vi_exh_19751208_evangelii-nuntiandi.html, số 41.

[40] Thánh Bộ Truyền Thông, Towards Full Presence, số 78.

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.