Linh đạo Truyền thông
Bất cứ ai muốn nói về Linh đạo đều phải bắt đầu với chính Chúa Thánh Thần. Linh đạo là kinh nghiệm sống về Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần dựng nên Hội Thánh vào lễ Hiện Xuống. Chính Thánh Thần biến đổi các tông đồ thầm lặng và nhát sợ thành các nhà truyền thông mãnh liệt và dũng cảm về sứ điệp cứu độ của Đức Kitô cho mọi dân tộc. Được đầy tràn sức mạnh Chúa Thánh Thần, họ truyền thông không chút sợ sệt cho toàn thể Israel và cho thế giới vào thời của họ. Không phải vô lý khi Hồng y Carlo Martini (1996, số 19) đã gọi kinh nghiệm Hiện Xuống (x. Cv 2,1-47) là Tin Mừng Truyền Thông. Ngài cảm thấy rằng kinh nghiệm này thậm chí vượt ra ngoài cả ranh giới của lễ Hiện Xuống, vì nó được diễn tả như một “giai điệu chủ đạo lớn với nhiều môtíp và... nhiều hình ảnh và biểu tượng” xuyên suốt Kinh Thánh. Trong biến cố Ngũ Tuần, “cảnh lộn xộn của Babel đã được vượt qua”. Sự can thiệp của Thiên Chúa bằng việc Chúa Thánh Thần hiện xuống được tiếp nối bằng “phép lạ nói các tiếng lạ mà cả các môn đệ lẫn các thính giả của các ngài đều trải nghiệm được” (Cv 2,3-12) và “trong phần thứ ba (Cv 2,14-17), Phêrô giải thích những sự việc đã xảy ra: ơn của Chúa Thánh Thần được gửi đến bởi Chúa Giêsu, Đấng đã chịu đóng đinh và đã sống lại. Ngài nhắc lại các hiệu quả ‘lây lan’ của ơn này; từ đó phát sinh cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên: ‘Và hôm ấy đã có thêm khoảng 3.000 người theo đạo” (2,41).
Chính ơn của Chúa Thánh Thần ngày Lễ Hiện Xuống đã “làm bùng lên một khả năng truyền thông phi thường. Nó mở lại các kênh truyền thông đã bị đóng chặt ở Babel và nó tái lập cho con người khả năng có những mối quan hệ dễ dàng và chân thực với nhau nhân danh Đức Giêsu Kitô. Nó làm phát sinh Hội Thánh như là dấu chỉ và công cụ của sự truyền thông giữa Thiên Chúa và gia đình nhân loại, và sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại”.
Chính trong kinh nghiệm này mà việc sai Hội Thánh đi đã bắt đầu như là sự tiếp tục truyền thông sứ mạng của Đức Kitô. Trong kinh nghiệm truyền thông liên văn hoá (xem Eilers, 1992, 147t.) của lễ Hiện Xuống, các dân tộc thuộc mọi nền văn hoá hiện hữu đều hiện diện, nghe và hiểu được thông điệp, thông điệp này cũng là sự cam kết của Hội Thánh trong việc truyền thông mục vụ và truyền giáo hôm nay. Chính từ sự lắng nghe trong thinh lặng sâu xa của tâm hồn (x. 1 V 3,9) và kinh nghiệm về Thánh Thần của Thiên Chúa mà mọi việc truyền thông của Hội Thánh tìm được những hiệu quả năng động bên trong cũng như bên ngoài. Sau cùng, trước hết và trên hết không phải việc sử dụng các phương tiện và kỹ thuật tạo được sức thuyết phục và nâng đỡ người ta, mà là tâm hồn cởi mở và lắng nghe, đầy tràn Thánh Thần của Thiên Chúa. Như lời Thánh Basiliô Cả (330-379): “Con người thần thiêng là người không còn sống bởi xác thịt nhưng được hướng dẫn bởi Thần Khí Thiên Chúa, người được gọi là con cái Thiên Chúa, được tái tạo giống hình ảnh của Con Thiên Chúa. Giống như thị lực hoạt động trong một con mắt lành mạnh, Thánh Thần hoạt động trong một linh hồn thanh sạch” (Về Thánh Thần, chương 26, số 61). Thánh Phaolô Tông Đồ quả quyết với chúng ta rằng “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5) và ngài nhắc nhở chúng ta: “Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Kitô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cr 1,21tt).
1.1 Linh đạo Truyền thông là sự mở lòng
Linh đạo Truyền thông bắt đầu bằng kinh nghiệm và lửa của Chúa Thánh Thần, và muốn chúng ta cũng diễn tả và chia sẻ sự sung mãn này cho người khác. Truyền thông Mục vụ là sự chia sẻ và đưa Thần Khí này vào sâu trong cuộc sống người khác; Truyền thông Truyền giáo chia sẻ Thần Khí này của Đức Giêsu Kitô cho những ai chưa trải nghiệm đầy đủ hay hầu như đã hoàn toàn để mất Người.
Linh đạo truyền thông phải là cơ sở của mọi việc truyền thông Kitô giáo. Về cơ bản điều này đòi mỗi người truyền thông phải có sự mở lòng về ba phương diện:
- mở lòng với Thiên Chúa
- mở lòng với chính mình, và
- mở lòng với người khác.
1.1.1 Mở lòng với Thiên Chúa
Sự mở lòng với Thiên Chúa và Thần Khí Người bắt đầu với kinh nghiệm bản thân về Chúa Giêsu trong cầu nguyện, suy niệm Kinh Thánh, kinh nghiệm về Thần Khí Người trong việc cử hành chung Phụng vụ và đời sống cộng đoàn. Sự mở lòng này với Thần Khí là điều kiện tiên quyết cho mọi linh đạo truyền thông, như lời Đức Gioan Phaolô II khẳng định trong thông điệp của ngài nhân Ngày Truyền Thông Thế Giới 1998: “Các nhà truyền thông Kitô giáo phải là những con người cầu nguyện với đầy Thần Khí, ngày càng đi sâu hơn vào sự truyền thông với Thiên Chúa để lớn lên trong khả năng nuôi dưỡng sự truyền thông giữa đồng loại. Họ phải được Chúa Thánh Thần dạy dỗ về lòng trông cậy, vì Người là tác nhân của việc rao giảng Tin Mừng”.
Trong một thái độ mở lòng như thế, linh đạo truyền thông mục vụ cũng giống như linh đạo truyền giáo, với các yếu tố được Đức Gioan Phaolô II vạch ra trong Thông điệp Truyền giáo Redemptoris Missio (1990):
a. Linh đạo truyền thông trước hết và trên hết được diễn tả “bởi một đời sống hoàn toàn dễ dạy với Chúa Thánh Thần. Nó đòi chúng ta phải được Thần Khí uốn nắn bên trong để ngày càng trở nên giống Đức Kitô hơn. Không thể nào làm chứng cho Đức Kitô mà không phản ánh hình ảnh Người, được ân sủng và sức mạnh của Thần Khí làm sống động trong chúng ta. Thái độ dễ dạy đối với Thần Khí cho chúng ta đón nhận các ơn sức mạnh và khôn ngoan, là những yếu tố cơ bản của linh đạo truyền giáo” (số 87) cũng như một linh đạo truyền thông đích thực. Ở điểm này các Tông Đồ của Chúa có thể là một mẫu gương cho chúng ta: “Tuy họ rất yêu mến Chúa và quảng đại đáp lại tiếng gọi của Người, họ vẫn tỏ ra không có khả năng hiểu được những lời của Người và không sẵn sàng đi theo Người trên con đường đau khổ nhục nhã. Thần Khí đã biến đổi họ thành những chứng nhân can đảm cho Đức Kitô và những sứ giả sáng suốt cho lời của Người. Chính Thần Khí đã hướng dẫn họ đi theo những con đường sứ mạng đầy khó khăn và mới mẻ. Ngày nay cũng như trong quá khứ, sứ mạng ấy luôn đầy những khó khăn và phức tạp, chúng ta cần có ơn can đảm và ánh sáng của Thần Khí”.
b. Linh đạo Truyền thông được sống dựa trên “mối hiệp thông thân mật với Đức Kitô. Chúng ta chỉ có thể hiểu hay thi hành sứ mạng nếu chúng ta qui nó về Đức Kitô như là Đấng được sai đi để rao giảng Tin Mừng,” được sai đi để truyền thông. Sự nhập thể và cứu chuộc của Người được Thánh Tông Đồ Phaolô mô tả (Pl 2,5-8) “như là một sự trút bỏ mình hoàn toàn, làm cho Đức Kitô trải nghiệm đầy đủ thân phận con người và chấp nhận trọn vẹn kế hoạch của Cha. Đây là một sự trút bỏ mình thấm nhuần tình yêu và diễn tả tình yêu” (RM 88). Một người truyền thông Kitô giáo trong hoạt động truyền thông mục vụ và truyền giáo phải kết hợp và hiệp thông sâu xa với hành vi trút bỏ mình này của Đức Kitô, để thể hiện việc truyền thông như là “hành vi hiến mình trong tình yêu,” như cách diễn tả của Communio et Progressio (1971, 11; cũng xem Ep 5,25). Vì vậy người truyền thông mục vụ và truyền giáo phải “từ bỏ mình và tất cả những gì mà từ trước đến nay mình vẫn coi là của mình, và làm cho mình trở nên mọi sự cho mọi người” (AG 24). Có nghĩa là họ phải hiến mình hoàn toàn cho những người mà họ truyền thông.
c. Linh đạo truyền thông để phục vụ hoạt động truyền thông mục vụ và truyền giáo còn được nổi bật vì đức ái tông đồ, là “đức ái của Chúa Kitô, Đấng đến để ‘quy tụ các con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối’ (Ga 11,52), đức ái của người mục tử tốt lành biết các chiên của mình, đi tìm kiếm chúng và thí mạng mình vì chúng (x. Ga 10). Người truyền giáo được thúc đẩy bởi ‘nhiệt tình vì các linh hồn’, một nhiệt tình được gợi hứng từ đức ái của chính Đức Kitô, được biểu hiện bằng sự quan tâm, dịu dàng, cảm thông, cởi mở, sẵn sàng phục vụ và quan tâm tới các vấn đề của dân. Tình yêu của Đức Giêsu rất sâu: Người là Đấng ‘biết rõ lòng dạ con người’ (Ga 2,25), Người đã yêu thương mọi người bằng cách ban cho họ ơn cứu độ và Người đau khổ khi ơn cứu độ này bị từ chối”. Giống như người truyền giáo, người truyền thông Kitô giáo là “con người của đức ái. Để rao giảng cho mọi anh chị em mình rằng họ được Thiên Chúa yêu thương và có khả năng yêu thương, người truyền thông phải biểu lộ tình yêu đối với mọi người, hiến mạng sống mình cho mọi người. Người truyền giáo là ‘người anh em của mọi người’, mang nơi mình tinh thần của Hội Thánh, thái độ cởi mở và quan tâm của Hội Thánh đối với mọi dân tộc và mọi cá nhân, đặc biệt những anh chị em hèn mọn và nghèo khổ nhất. Bằng thái độ ấy, họ vượt qua được những rào cản và phân cách về chủng tộc, giai cấp hay ý hệ. Họ là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa trong thế giới - một tình yêu không loại trừ hay thiên vị một ai” (RM 89).
d. Sau cùng, linh đạo của người truyền thông là một lời kêu gọi vươn tới sự thánh thiện bản thân. Họ chỉ là một người truyền thông Kitô giáo đích thực nếu họ dấn mình vào việc này và nếu tất cả hoạt động truyền thông của họ tuôn trào từ sự dấn mình này. “Sự thánh thiện phải được gọi là một điều kiện nền tảng và không thể thay thế đối với mọi người trong việc hoàn thành sứ mạng cứu rỗi trong Hội Thánh” (Christifideles Laici, 1988, 17). Lời kêu gọi mọi người phải vươn tới sự thánh thiện là một thách thức đặc biệt đối với những người truyền thông mục vụ và truyền giáo. Họ phải hằng ngày cố gắng canh tân bản thân trong Thần Khí và ngày càng đi sâu hơn trong sự quý chuộng Kinh Thánh và “cũng cố gắng cập nhật việc huấn luyện giáo thuyết và mục vụ của họ” (RM 91).
Contemplata Tradere, truyền đạt điều mình suy niệm, là châm ngôn của Dòng Giảng Thuyết (Đaminh) trong Hội Thánh. Thánh Inhaxiô Loyôla, sáng lập Dòng Tên, là người đầu tiên được gọi là nhà chiêm niệm trong hành động. Đức Gioan Phaolô II cũng đòi hỏi người truyền giáo phải có thái độ ấy và một người truyền thông Kitô giáo muốn xứng với tên gọi này cũng phải có thái độ như vậy. Theo Đức Gioan Phaolô II (RM 91), một ‘người chiêm niệm trong hành động’ là người “tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề trong ánh sáng của lời Chúa và trong kinh nguyện cá nhân và cộng đoàn. Các tiếp xúc của tôi với đại diện của các truyền thống thiêng liêng ngoài Kitô giáo, đặc biệt các truyền thống ở Châu Á, đã xác nhận cho tôi quan điểm rằng tương lai của truyền giáo tuỳ thuộc một phần rất lớn vào chiêm niệm. Trừ khi người truyền giáo là một người chiêm niệm, họ không thể nào rao giảng Đức Kitô một cách đáng tin được. Họ là một chứng nhân về kinh nghiệm Thiên Chúa, và họ phải có thể nói như các tông đồ: ‘điều chúng tôi đã thấy tận mắt... về Lời sự sống... chúng tôi loan báo cho anh em’ (1 Ga 1,1-3)”. Lời Đức Thánh Cha nói ở cuối Thông điệp của ngài cũng áp dụng cho người truyền thông Kitô giáo: “Nét đặc trưng của mọi cuộc đời truyền giáo đích thực là niềm vui bên trong phát xuất từ đức tin. Trong một thế giới bị dằn vặt và đè bẹp bởi quá nhiều vấn đề, một thế giới bị cám dỗ bởi thái độ bi quan, thì người loan báo ‘Tin Mừng’ phải là một người đã tìm thấy niềm hy vọng thực sự trong Đức Kitô” (số 91).
1.1.2 Mở lòng với chính mình
Sự mở lòng của người truyền thông mục vụ và truyền giáo với Thiên Chúa cũng được phản ánh qua sự mở lòng ra với chính mình và với các nhu cầu riêng của mình. Chỉ ai biết đối diện với thực tế của bản thân mình mới có thể là một đối tác truyền thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Người ta muốn truyền thông với một con người cụ thể, quân bình, trưởng thành, đầy Thánh Thần và có trách nhiệm, chứ không phải với những con phỗng vô tri vô giác hay với những người quá bị giày vò bởi các rắc rối của bản thân mình. Vì vậy, người truyền thông Kitô giáo phải quan tâm tới đời sống và sự trưởng thành thiêng liêng cũng như phát triển nhân bản của chính mình. Họ cần quí chuộng và phát triển kinh nghiệm về việc linh hướng, cũng là một phần cơ bản của truyền thông mục vụ. Một vị linh hướng giỏi giúp phân định rõ những đường lối của Thánh Thần, khích lệ sự tăng trưởng và cống hiến niềm hi vọng và mục đích trong cuộc đời và sứ mạng. Người truyền thông sáng suốt và có nền tảng Kitô giáo sâu xa sẽ trân trọng và chấp nhận giá trị của một cộng đoàn Kitô giáo, mà trong trường hợp lý tưởng thậm chí có thể là một cộng đoàn các người truyền thông Kitô giáo, sống và tìm kiếm sứ mạng của mình trong cuộc đời. Chính trong thái độ cởi mở đối với tất cả những điều này mà mọi hành động của chúng ta rạng chiếu nền linh đạo đích thực. Một người truyền thông thiêng liêng sẽ dễ dàng được nhận ra và sẽ có thể góp phần vào việc xây dựng “các cộng đoàn bằng tình yêu, chia sẻ, hiệp thông, quan hệ và bình đẳng” (Hội nghị các Giám mục FABC-OSC 1999).
1.1.3 Mở lòng với người khác
Sự mở lòng với Thiên Chúa và với bản thân mình dẫn tới sự mở lòng với người khác, trong việc lắng nghe các câu truyện và kinh nghiệm của họ, các nhu cầu và nguyện vọng của họ, chia sẻ các kinh nghiệm đức tin, tạo dựng và nâng đỡ các cộng đoàn. Đây là nguồn mạch cho đời sống thiêng liêng của người truyền thông. Trong khi dấn thân cho hoạt động truyền thông, họ cần được sự nuôi dưỡng và nâng đỡ của cộng đoàn. Không phải vô cớ mà hai từ ‘cộng đoàn’ (community) và ‘truyền thông’ (communication) có cùng từ gốc Latinh là communis, nghĩa là ‘chung’. Khi đào sâu ý nghĩa các từ này, Gisbert Greshake (2002, 6f) thấy trong gốc của từ này nguyên thuỷ có hai khía cạnh. Nó đến từ gốc “mun” có nghĩa là một cái gì giống như một khối, hay một bức tường bao quanh. Những người sống trong hiệp thông, trong quan hệ truyền thông, thì “cùng nhau ở sau cùng một bức tường”, cùng nhau ở cùng một chỗ và cùng một môi trường, ở đó mọi người lệ thuộc lẫn nhau. Nghĩa thứ hai cũng dựa trên cùng một gốc “mun” như được phản ánh trong từ Latinh “munus” nghĩa là quà tặng, phục vụ, và dấn thân. Nó cho thấy người truyền thông sống để phục vụ người khác, chia sẻ bản thân và mọi sự của mình để từ đó phát triển một cái gì chung, đó là cộng đoàn.
Linh đạo truyền thông vì vậy không chỉ là linh đạo cá nhân mà còn là linh đạo cộng đoàn. Kinh nghiệm cộng đoàn trong Kinh nguyện, Thánh Thể và đời sống bí tích, trong chia sẻ Kinh Thánh và đời sống chung, kinh nghiệm ấy nuôi dưỡng và tạo sức mạnh, đặc biệt trong những tình huống truyền thông khó khăn. Chính từ điểm này mà người truyền thông Kitô giáo cảm thấy mình đặc biệt gắn chặt với các nhu cầu của người khác và vì vậy, trong nhiều trường hợp, họ trở thành ‘tiếng nói của những người không có tiếng nói’.
Đặc biệt tính sáng tạo nhân bản và truyền thông vượt trên các phương tiện kỹ thuật chính là cái được nuôi dưỡng nhờ linh đạo sâu xa hơn của cá nhân và cộng đoàn. Trong một thông điệp gửi Đại hội Thế giới các tổ chức Công giáo Quốc tế về Truyền thanh và Phim ảnh (Unda/OCIC) tại Montreal 1998, Hồng y Angelo Sodano từ Văn phòng Quốc vụ khanh Vatican đã nhân danh ĐTC viết (ngày 14-7) đích thị về mối quan tâm này. Sau khi nhắc đến “sự sáng tạo kỳ diệu về kỹ thuật” trong thế giới các phương tiện truyền thông thời gian gần đây, ngài đòi rằng chúng “cần được đi đôi với một sự sáng tạo khác mang tính chất thiêng liêng chân chính. Sự sáng tạo thiêng liêng chân chính nhấn mạnh ‘sự ưu tiên của đạo đức trên kỹ thuật, sự trổi vượt của con người trên sự vật, sự siêu việt của tinh thần trên vật chất’ (Redemptoris Hominis, 16). Nó mở con người ra với mầu nhiệm là cốt tuỷ của mọi sự vật, mở ra với cái tốt, cái thật và cái đẹp là những điều mà mọi người khao khát. Nó mở ra các tầng trời để thấy được niềm hy vọng, và như thế nó dự phần vào sự sáng tạo của Thiên Chúa. Sự sáng tạo này đòi những người Công giáo đang dấn thân trong hoạt động truyền thông hã hội phải có một trình độ chuyên môn đầy đủ trong một lĩnh vực đang phát triển quá nhanh. Nó cũng đòi hỏi họ một trí tưởng tượng có chất lượng - khả năng nhìn thế giới không chỉ như nó hiện có mà như nó sẽ có thể là gì, và nhờ đó cống hiến những tầm nhìn tiềm năng để nuôi hy vọng. Theo nghĩa này, người truyền thông Công giáo cần phải là một nghệ nhân có khả năng phá vỡ những nhận thức cũ và chán nản về thế giới để sinh ra những nhận thức mới đầy hi vọng. Về phần mình, trí tưởng tượng có chất lượng này đòi hỏi một sự thánh thiện đích thực - một sự mở lòng ra với mầu nhiệm Thiên Chúa và một sự gần gũi Đức Kitô như là Đấng mà trong vinh quang của Người cái tốt, cái thật và cái đẹp đạt được sự sung mãn của chúng. Sau cùng, một sự ‘thánh thiện’ dựa trên sự gần gũi Đức Kitô đòi hỏi người truyền thông Công giáo một phẩm chất can đảm, giúp họ rao giảng Tin Mừng trong một thế giới thường tỏ ra dửng dưng và có khi thù nghịch ra mặt. Nếu những người truyền thông Công giáo tìm được những ngôn từ và những hình ảnh đúng để rao giảng Tin Mừng, thì ngay cả những người dửng dưng và thù nghịch cũng có thể nhận ra những gì được cống hiến cho họ, một tiếng nói sáng tạo thực sự thấm vào tận những khát vọng thâm sâu nhất của họ”.
Trong thái độ cởi mở với tha nhân, “Đức Ái Tông Đồ” - cũng là kết quả của sự mở lòng ra với Thiên Chúa (xem ở trên, 2.1.c) - được diễn tả một cách đặc biệt cho người linh mục và cả cho người truyền thông mục vụ bằng điều mà Đức Gioan Phaolô II gọi là ‘Đức Ái Mục Tử”. Trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis (số 24), ngài mô tả nội dung cơ bản của Đức Ái Mục Tử là “nhân đức mà nhờ đó chúng ta bắt chước Đức Kitô trong sự hiến mình và phục vụ. Không chỉ là những việc chúng ta làm, nhưng chính sự hiến mình của chúng ta bộc lộ tình thương của Đức Kitô đối với đàn chiên của Người. ‘Đức Ái Mục Tử’ xác định cách chúng ta suy nghĩ và hành động, cách chúng ta quan hệ với người khác. Nó có những đòi hỏi đặc biệt đối với chúng ta...”. Đối với các linh mục, và cũng có thể áp dụng cho mọi người truyền thông mục vụ, Đức Thánh Cha bảo đảm rằng ‘Đức Ái Mục Tử’ như một nguyên lý năng động nội tại “có khả năng thống nhất nhiều hoạt động khác nhau của người linh mục. Nhờ nguyên lý nội tại này... họ có thể đáp ứng thích hợp sự đòi hỏi cơ bản và thường xuyên về sự thống nhất giữa đời nội tâm của linh mục và các hoạt động bên ngoài cùng với các bổn phận thừa tác vụ của họ, một đòi hỏi đặc biệt cấp bách trong một bối cảnh văn hoá-xã hội và giáo hội chứa đầy sự phức tạp, manh mún và phân tán” (x. Eilers, 1999, tr. 93tt.).
1.2 Linh đạo Truyền thông làm Cơ sở cho Kế hoạch Truyền thông Mục vụ và Truyền giáo
Với văn kiện Novo Millennio Ineunte (6-1-2001) của ngài, một cách chi tiết và ấn tượng, Đức Gioan Phaolô II cho thấy bằng cách nào linh đạo phải là nền móng và cơ sở cho mọi việc truyền thông mục vụ và truyền giáo của Hội Thánh. Sau khi điểm lại những kinh nghiệm của Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đề nghị “bắt đầu vạch ra một kế hoạch mục vụ hiệu quả sau Năm Thánh”, đương nhiên cũng bao gồm lĩnh vực truyền thông mục vụ và truyền giáo. Thay vì bắt đầu với các đề nghị ‘làm thế nào’, văn kiện này trình bày khá dài về các nền tảng thiêng liêng cho một kế hoạch như thế, cũng là một kế hoạch cơ bản để có một hoạt động truyền thông sâu xa hơn và có trách nhiệm hơn trong thiên niên kỷ mới này. Đức Gioan Phaolô viết: “Tuy nhiên, điều quan trọng là những gì chúng ta đề nghị, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, phải được đặt nền sâu xa trên sự chiêm niệm và cầu nguyện. Thời đại chúng ta là thời đại chuyển động không ngừng, thường dẫn tới rối động, với nguy cơ ‘làm vì làm’. Chúng ta phải kháng cự lại cám dỗ này bằng cách cố gắng ‘là cái gì’ trước khi cố gắng ‘làm cái gì’. Về phương diện này, chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giêsu khiển trách cô Mácta: ‘Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần mà thôi...’ (Lc 10,41-42). Trong tinh thần này, trước khi nêu lên một số hướng dẫn suy tư cho anh chị em, tôi muốn chia sẻ với anh chị em một ít suy niệm về mầu nhiệm Đức Kitô, nền tảng tuyệt đối của mọi hoạt động mục vụ của chúng ta” (số 15).
* Truyền thông mục vụ và truyền giáo bắt đầu với việc chiêm ngắm khuôn mặt Đức Kitô ăn rễ sâu trong đức tin mà Thánh Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). “Phêrô đã đến được với đức tin này như thế nào? Và chúng ta cần phải làm gì nếu muốn đi theo vết chân của ngài với một niềm xác tín ngày càng lớn hơn? Mátthêu cho chúng ta một trực giác sáng suốt qua lời Chúa Giêsu chấp nhận lời tuyên xưng của Phêrô: ‘Không phải máu thịt mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời’ (16,17). Thành ngữ ‘máu thịt’ là chỉ về loài người (‘phàm nhân’, theo bản dịch của Nhóm CGKPV) và cách hiểu chung của loài người về sự vật. Đối với Chúa Giêsu, cách hiểu này không đủ. Cần phải có một ơn ‘mặc khải’ đến từ Cha. Luca cho chúng ta một chỉ dẫn theo cùng một hướng này khi ngài lưu ý rằng cuộc đối thoại này diễn ra khi Đức Giêsu ‘đang cầu nguyện một mình’ (Lc 9,18). Cả hai chỉ dẫn trên đây đều làm sáng tỏ rằng chúng ta không thể nào đạt được sự sung mãn trong việc chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Giêsu nếu chỉ dựa vào cố gắng riêng của mình, nhưng phải để cho ân sủng cầm tay dẫn chúng ta đi. Chỉ có kinh nghiệm về sự thinh lặng và cầu nguyện mới cung cấp cho chúng ta khung cảnh thích hợp để nuôi dưỡng và phát triển một sự hiểu biết đích thực, trung thành và nhất quán về mầu nhiệm với cách diễn tả tột đỉnh được tìm thấy trong lời tuyên bố long trọng của Thánh Gioan tác giả Tin Mừng: ‘Và NGÔI LỜI đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta, đầy tràn ân sủng và sự thật...’” (Ga 1,14) (số 19,20).
Liên quan tới nhu cầu thinh lặng và cầu nguyện, có lẽ rất ích lợi nếu chúng ta biết rằng Uỷ ban Phụng vụ của Hội đồng Giám mục Đức đã công bố (ngày 14-2-2003) một văn kiện dài về “Các Căn Phòng Yên Tĩnh. Một ít tư tưởng về việc bảo tồn một điều tốt đang có nguy cơ bị mất đi trong các Thánh Đường của chúng ta”, văn kiện này trình bày đích thị về nhu cầu thinh lặng và yên tĩnh trong thời đại ngày nay, đặc biệt tại các nhà thờ của chúng ta, nơi đang ngày càng trở nên một địa điểm du lịch giống như các viện bảo tàng. Văn kiện cũng nhấn mạnh nhu cầu thinh lặng trong các cử hành phụng vụ cũng như nhu cầu suy niệm trong thinh lặng về các ảnh tượng thánh như là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta. Văn kiện kêu gọi hãy có những “Đảo Thinh Lặng” trong thế giới ồn ào của chúng ta.
Các suy từ này mới đây đã được nhấn mạnh thêm bởi Tông huấn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II về Phụng vụ Thánh nhân dịp kỷ niệm 40 năm Hiến chế Sacrosanctum Concilium, ngày 12-12-2003, số 13): “Một khía cạnh phải được các cộng đoàn của chúng ta đặc biệt quyết tâm vun trồng, đó là kinh nghiệm về thinh lặng. Chúng ta cần sự thinh lặng để ‘đón nhận trong tâm hồn âm vang đầy đủ của tiếng Chúa Thánh Thần, và để kết hợp một cách mật thiết hơn kinh nguyện cá nhân với Lời Chúa và với tiếng nói công cộng của Hội Thánh’ (số 32). Trong một xã hội ngày càng sống cuồng nhiệt, điên đảo vì những tiếng ồn ào và bị cuốn hút vào những thứ phù du, thì tìm lại giá trị của thinh lặng là một điều sống còn. Không phải tình cờ mà ngoài việc phụng tự Kitô giáo, các việc thực hành nguyện gẫm nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hồi tâm đang đang trở thành phổ biến. Sao chúng ta không dấn mình thực hiện bằng sự táo bạo sư phạm một việc giáo dục chuyên biệt về thinh lặng trong ranh giới của kinh nghiệm Kitô giáo? Chúng ta phải đặt trước mắt gương sáng của Chúa Giêsu, ‘Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó’ (Mc 1,35). Trong số các lúc và các dấu hiệu khác nhau của nó, Phụng Vụ không thể coi nhẹ các lúc và các dấu hiệu của sự thinh lặng”.
* Mọi việc truyền thông mục vụ và truyền giáo phải gắn chặt vào sự thánh thiện. Dựa trên chương 5 của Lumen Gentium của Vatican II với ‘ơn gọi mọi người nên thánh’, rõ ràng đây cũng là một điều kiện cho mọi công việc mục vụ và truyền thông Kitô giáo. “Thoạt nghe, việc nhắc lại sự thật sơ đẳng này có vẻ là chuyện thiếu thực tế... Có thể nào ‘lên kế hoạch’ cho sự thánh thiện chăng? Từ ‘thánh thiện’ có thể có nghĩa gì trong bối cảnh của một kế hoạch mục vụ? Thực ra đặt kế hoạch mục vụ dưới tiêu đề của sự thánh thiện là một chọn lựa mang nhiều hệ quả. Nó bao hàm niềm xác tín rằng, vì Phép Rửa là một cửa ngõ thực sự để đi vào sự thánh thiện của Thiên Chúa qua việc sát nhập vào với Đức Kitô và việc Thánh Thần của Người đến cư ngụ trong chúng ta, nên sẽ là mâu thuẫn nếu chấp nhận một đời sống tầm thường, với một nền đạo đức tối thiểu và một lòng đạo nông cạn. Hỏi những người dự tòng: ‘Anh chị em có muốn lãnh nhận Phép Rửa không?’ cũng đồng thời có nghĩa là hỏi họ: ‘Anh chị em có muốn nên thánh không?’ Nó có nghĩa là đặt ra trước mắt họ bản chất triệt để của Bài Giảng Trên Núi: ‘Anh em hãy nên trọn lành như Cha của anh em trên trời là Đấng trọn lành’ (Mt 5,48)” (các số 30, 31).
* ‘Nghệ thuật cầu nguyện’ là phần cốt yếu của mọi việc truyền thông mục vụ và truyền giáo. Đức Gioan Phaolô II viết: “Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng cầu nguyện không phải là một chuyện tự nhiên mà có. Chúng ta phải học cầu nguyện: như thể chúng ta học nghệ thuật luôn luôn mới mẻ này từ chính miệng Thầy Chí Thánh, giống như các môn đệ đầu tiên: ‘Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện!’ (Lc 11,1). Cầu nguyện làm phát triển cuộc đàm thoại với Đức Kitô để biến chúng ta thành các bạn hữu chí thiết của Người: ‘Hãy ở lại trong Thầy và Thầy trong anh em’ (Ga 15,4). Tính hỗ tương này là chính bản chất và linh hồn của đời sống Kitô giáo và là điều kiện của mọi đời sống mục vụ đích thực. Được Chúa Thánh Thần thực hiện trong chúng ta, tính hỗ tương này mở lòng chúng ta ra để chiêm ngắm khuôn mặt Cha, nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô. Việc học biết hình dạng Ba Ngôi này của kinh nguyện và sống nó trọn vẹn, đặc biệt trong phụng vụ, tột đỉnh và nguồn mạch đời sống của Hội Thánh, mà cả trong kinh nghiệm cá nhân, đó chính là bí quyết của một đời sống Kitô đích thực, không có lý do gì để sợ tương lai, bởi vì nó không ngừng trở về với các nguồn mạch và tìm thấy sức sống mới ở đó... Các cộng đoàn Kitô giáo của chúng ta phải trở thành các ‘trường học’ cầu nguyện đích thực, ở đó việc gặp gỡ Đức Kitô được diễn tả không chỉ bằng việc cầu xin trợ giúp, nhưng còn bằng việc tạ ơn, ngợi khen, thờ lạy, chiêm ngắm, lắng nghe và sốt sắng mến yêu, cho tới khi quả tim thực sự ‘say đắm’...” (các số 32, 33).
* Địa vị tối thượng của ân sủng là yếu tố cơ bản của mọi việc truyền thông Kitô giáo. “Nếu trong kế hoạch đang chờ đời chúng ta, chúng ta dấn mình một cách tin tưởng vào một hoạt động mục vụ mà trong đó việc cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn được dành một chỗ thích hợp, thì chúng ta đang tuân giữ một nguyên tắc cơ bản của nhân sinh quan Kitô giáo: địa vị tối thượng của ân sủng. Có một cám dỗ xưa nay luôn cản trở mọi hành trình thiêng liêng và hoạt động mục vụ: đó là nghĩ rằng kết quả tuỳ thuộc khả năng hành động và kế hoạch của chúng ta. Đương nhiên Thiên Chúa muốn chúng ta thực sự cộng tác với ân sủng của Người, và Người mời gọi chúng ta vận dụng mọi tâm lực để phục vụ Nước Người, nhưng sẽ là tai hoạ thực sự nếu chúng ta quên mất rằng ‘không có Đức Kitô, chúng ta không thể làm được gì’ (x. Ga 15,5). Chính kinh nguyện giúp chúng ta gắn chặt với chân lý này. Kinh nguyện không ngừng nhắc nhớ chúng ta về địa vị tối thượng của Đức Kitô và của đời sống nội tâm và thánh thiện trong mối kết hợp với Người. Khi nguyên tắc này không được tôn trọng, sẽ không có gì ngạc nhiên nếu các kế hoạch mục vụ của chúng ta chỉ là công dã tràng và để lại trong lòng chúng ta một cảm giác thất vọng. Những lúc như thế, chúng ta có cùng một trải nghiệm như các môn đệ trong câu truyện Tin Mừng về mẻ cá lạ: ‘Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì’ (Lc 5,5). Đây là lúc để cầu nguyện, để nói chuyện với Thiên Chúa, xin Người mở lòng chúng ta ra trước đợt sóng ân sủng của Người và để cho Lời Đức Kitô thấm nhập vào lòng chúng ta với tất cả sức mạnh của Lời ấy. Duc in altum! (‘Hãy ra chỗ sâu mà thả lưới!’) Lúc ấy, chính Phêrô đã nói lên lời nói đức tin: ‘Vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (số 38).
* Linh đạo Truyền thông phải là một linh đạo Hiệp thông. Linh đạo này “vạch rõ trên hết việc chiêm niệm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cư ngụ trong chúng ta, và ánh sáng của mầu nhiệm này cũng phải có thể được nhìn thấy rạng ngời trên khuôn mặt của các anh chị em xung quanh chúng ta. Linh đạo hiệp thông cũng có nghĩa là khả năng suy nghĩ về các anh chị em chúng ta trong đức tin, với sự duy nhất sâu xa của Nhiệm Thể, và vì vậy, có thể nhìn họ như là ‘những thành phần của tôi’. Điều này giúp chúng ta biết chia sẻ những vui buồn của họ, cảm thấy được các nguyện vọng và quan tâm tới các nhu cầu của họ, cống hiến cho họ tình bạn sâu xa và chân thật. Linh đạo hiệp thông cũng bao hàm khả năng thấy được những điểm tích cực nơi người khác, đón nhận và quý chuộng chúng như là một quà tặng của Thiên Chúa... Sau cùng, linh đạo hiệp thông có nghĩa là biết cách ‘dành chỗ’ cho anh chị em chúng ta, mang ‘gánh nặng lẫn cho nhau’ (Gl 6,2) và kháng cự lại các cám dỗ ích kỷ không ngừng làm chúng ta buồn phiền và khích động sự cạnh tranh, nghi kỵ và ghen tương. Chúng ta không được có ảo tưởng: Nếu chúng ta không đi theo linh đạo này, thì các cơ cấu hiệp thông bề ngoài” - và truyền thông! - “sẽ chẳng có ích gì. Chúng sẽ chỉ là những cỗ máy vô hồn, ‘những mặt nạ’ truyền thông thay vì là phương tiện để diễn tả và tăng trưởng” (số 43).
Một linh đạo truyền thông sâu xa phải là cơ sở cho mọi hoạt động truyền thông, nhưng đặc biệt cho loại truyền thông liên quan đến việc chăm sóc mục vụ và sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh. Loại linh đạo này không phải là cái có thể học được giống như các kỹ năng hay kỹ thuật, nhưng phải được sống. Phải lớn lên trong nó. Nhưng chúng ta có các ‘thầy dạy’ để chỉ cho chúng ta đường đi, giúp chúng ta trong nhiệm vụ cơ bản này không? Chúng ta có các cơ cấu để phát huy sự lớn lên như thế không? Đây là một thách thức của cả đời, không riêng gì đối với cá nhân người truyền thông nhưng cả đối với mọi tổ chức và tập thể quan tâm và dấn thân cho việc truyền thông đời sống và đức tin Kitô giáo.
Sách Công vụ Tông đồ (4,23-40) vạch ra con đường và chỉ cho chúng ta thấy các bước cụ thể của một sự truyền thông dựa trên Thần Khí: Sau khi Phêrô và Gioan đã làm chứng trước Thượng Hội Đồng và được thả, toàn thể cộng đoàn tạ ơn và cầu nguyện cùng Thiên Chúa. “Họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa”. Từ điểm này, chúng ta có thể rút ra ba bước mà mọi việc truyền thông mục vụ và truyền giáo phải làm:
1. Cầu nguyện, 2. Tràn đầy Thánh Thần, 3. Mạnh dạn nói Lời Thiên Chúa. Truyền thông mục vụ và truyền giáo bắt đầu với việc cầu nguyện bởi vì đó là sự truyền thông của Thiên Chúa. Rồi nó phải được tràn đầy Thánh Thần của Người, Đấng làm cho chúng ta can đảm rao giảng giống như các tông đồ nhát sợ vào ngày lễ Hiện Xuống đã được Thánh Thần biến đổi thành những người can đảm trình bày Lời của Người.
Để chuẩn bị cho thiên niên kỷ mới, văn kiện Novo Millennio Ineunte (các số 30 tới 40) nêu lên cơ bản bốn trụ cột cho mọi hoạt động mục vụ: 1. Sự thánh thiện, 2. Cầu nguyện, 3. Các bí tích, 4. Lời Thiên Chúa.