THẦN HỌC VÀ MỤC VỤ TRUYỀN THÔNG
SỨ VỤ CỦA GIÁO HỘI Trong Kỷ Nguyên Kỹ Thuật Số
Mission of the Church in the Digital Age
LM Anthony Lê Đức, SVD
Chương 2: THẦN HỌC VÀ MỤC VỤ TRUYỀN THÔNG
(1) Dấu chỉ của thời đại
(2) Nền văn hóa mới
(3) Nền tảng thần học cho mục vụ truyền thông
(3.1) Khái niệm về Truyền thông
(3.2) Những yếu tố của thần học truyền thông
(3.3) Truyền thông mục vụ và truyền thông loan báo Tin Mừng
(4) Ý nghĩa thần học
(4.1) Định hướng
(4.2) Linh đạo truyền thông
(4.3) Đón nhận toàn thể con người
(4.4) Sức mạnh của Chúa Thánh Thần
(4.5) Chúa Giêsu – Nhà Truyền Thông Hoàn Hảo
(5) Lời và hành động trong truyền thông mục vụ và loan báo Tin Mừng
=========
(1) Dấu chỉ của thời đại
Trước những cơ hội và thách đố mục vụ trong bối cảnh kỹ thuật số ngày nay, Giáo hội có nhiệm vụ phân định và giải thích các dấu chỉ thời đại dưới ánh sáng của Tin Mừng. Hiến Chế Mục vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium et Spes, đã khẳng định:
Lúc nào Giáo hội cũng có bổn phận tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải thích chúng dưới ánh sáng Phúc Âm; như vậy mới có thể giải đáp một cách dễ hiểu với từng thế hệ những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai sau cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy. Do đó, cần phải nhận biết và thấu hiểu thế giới chúng ta đang sống với những giải nghĩa, mong chờ và cả tính chất thường là kịch tính của nó.[1]
Quả thực, chúng ta không những chỉ xem xét các dấu chỉ thời đại bằng các phương pháp khoa học và học thuyết xã hội, mà còn phải suy tư dưới sự soi dẫn và tác động của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, chúng ta có thể tìm ra cách thức xứng hợp, hầu giúp con người khám phá ra chân tính cao cả mà Thiên Chúa đã ban tặng và đáp trả lại ân điển ấy bằng cả con tim.[2] Vì thế, việc đầu tư thời gian và nỗ lực để suy tư và phân định về các dấu chỉ của thời đại là điều khẩn thiết nhằm thích ứng với những thách đố mục vụ trong thời kỳ không ngừng đổi thay này.
Trong chương này chúng ta chỉ đề cập đến một số dấu chỉ liên quan đến sự phát triển công nghệ nói chung và việc phổ biến CNTT-TT nói riêng mà Hội Thánh cần phải phân định. Hội Thánh cần phải xét xem làm cách nào mà những tiện ích này có thể dẫn đưa nhân loại đến sự sống và chân lý thay vì hướng tới sự gian dối và hủy hoại. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chỉ ra rằng việc tạo ra và phổ biến thông tin sai lạc chưa từng có trong thời đại CNTT-TT đang làm ô nhiễm đời sống nội tâm của chúng ta vì chúng chứa đựng sự lừa dối.[3] Những trò gian lận này khiến cho lòng tham vô độ tiềm ẩn nơi con người trỗi dậy mạnh mẽ.[4] Chúng được sử dụng như một phương thức để làm lu mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi con người, hạ thấp căn tính mà Thiên Chúa đã đặt để nơi mỗi người từ thuở tạo dựng. Do đó, chúng ta phải cảnh giác và khẩn trương bảo vệ mình khỏi sự ô uế này.
Các dấu chỉ này cũng cần được xem xét kỹ lưỡng để tận dụng những khả năng của chúng ta để thúc đẩy sự phát triển toàn diện nơi con người. Tài liệu “Đạo Đức Trên Internet” do Hội đồng Giáo Hoàng về Truyền thông Xã hội phát hành năm 2002 mời gọi tất cả mọi người nhận thức về những tác động tiêu cực của việc sử dụng internet. Thật vậy, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II diễn tả: “Giáo hội không thể đơn giản chỉ là khán giả trước những hậu quả xã hội của tiến bộ công nghệ vốn ảnh hưởng quyết định đến đời sống con người.”[5] Các vấn nạn và cơ hội do công nghệ mới tạo ra, được tăng cường bởi toàn cầu hóa cũng như việc xóa bỏ điều tiết và cá nhân hóa của truyền thông đặt ra những thách đố mới về đạo đức và tâm linh, đặc biệt với những người làm việc trong lĩnh vực truyền thông xã hội. Những thách đố này sẽ được hưởng ứng cách hiệu quả bởi những người cam kết hết lòng phục vụ “con người, xây dựng cộng đồng dựa trên tinh thần liên đới, công lý và tình yêu, lên tiếng cho sự thật và sự thành toàn chung cuộc của đời sống con người trong Thiên Chúa.”[6] Như vậy, văn kiện “Đạo Đức Trên Internet” tái khẳng định nguyên tắc được nêu trong tài liệu “Đạo Đức Trong Truyền Thông” đã phát hành trước đó rằng:
Con người và cộng đồng con người là cùng đích và thước đo của việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội; truyền thông phải được thực hiện bởi con người, với con người, vì sự phát triển toàn diện của con người.[7]
Các dấu chỉ thời đại cũng phải được kiểm tra nghiêm túc để nhận ra những tác hại như nguy cơ gieo xung đột thay vì hợp nhất, hiểu lầm thay vì hòa giải, hận thù thay vì bác ái. Các vấn nạn như khoảng cách kỹ thuật số, bất bình đẳng kinh tế và xã hội đi ngược lại với giá trị của tình liên đới, là điều thiết yếu trong sự thăng tiến của cá nhân và cộng đồng. Thông điệp Populorum Progressio (Phát Triển Các Dân Tộc) đã khẳng định về vấn đề này: “Không thể có sự tiến bộ đối với sự phát triển toàn vẹn của mỗi cá nhân nếu không có sự phát triển đồng thời của toàn thể nhân loại trong tinh thần liên đới.”[8] Có thể nói rằng, Giáo hội nhìn nhận liên đới như là một nhân đức và nguyên tắc xã hội nhằm mục đích thăng tiến phẩm giá cao cả của con người. Vì vậy, Giáo hội bắt buộc phải chỉ ra các khía cạnh của việc phát triển, truyền bá và sử dụng CNTT-TT vốn chống lại tinh thần liên đới và cản trở sự tiến bộ của người nghèo và người yếu thế chỉ bởi vì họ thiếu khả năng và cơ hội tiếp cận với các phát minh tân tiến.
Các dấu chỉ trên cũng phải được xem xét về khả năng hỗ trợ việc đào tạo thế hệ trẻ cách thích hợp. Quá trình này có thể gây ra tác hại tiêu cực nghiêm trọng nếu các nhà đào tạo thiếu cẩn trọng khi sử dụng CNTT-TT trong việc huấn luyện người trẻ, hoặc để cho trẻ em sử dụng các thiết bị kỹ thuật số quá tự do. Hậu quả là có nhiều người trẻ bị đắm chìm trong thế giới mạng xã hội, các trò chơi trực tuyến, phim ảnh khiêu dâm trên internet, “alô-sex” qua mạng và nhiều tệ nạn khác. Việc người trẻ được tiếp xúc với nhiều kiến thức có thể có lợi cho sự phát triển tâm sinh lý nếu chúng được hướng dẫn và kiểm soát đúng đắn từ người lớn. Sự thiếu cảnh giác của các bậc cha mẹ, thầy cô và những người có trách nhiệm trong công tác truyền thông xã hội có thể gây hại khôn lường đối với sự phát triển của người trẻ.
Các dấu chỉ liên quan đến phát triển công nghệ cũng cần phải được biện phân về tác động của chúng đối với hệ sinh thái tự nhiên. Thiên Chúa ban cho con người khả năng sáng tạo các sản phẩm công nghệ để chúng trở nên những công cụ hữu ích cho sự phát triển của toàn thể nhân loại. Tuy nhiên, nếu bị sử dụng sai mục đích, chúng có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng về môi trường, xã hội, kinh tế và chính trị. Trong Thông điệp về môi trường Laudato Si, Đức Thánh Cha Phanxicô bình luận rằng, “Các khuôn mẫu và dạng thức quyền lực mới xuất phát từ công nghệ” góp phần gây ra bất bình đẳng xã hội và tình thế tiến thoái lưỡng nan về môi trường ngày nay.[9] Thật vậy, công nghệ có thể được sử dụng để giải quyết một nhu cầu cụ thể của con người, nhưng cuối cùng lại làm nảy sinh một loạt vấn đề hoàn toàn mới. Đức Thánh Cha Phanxicô đã chỉ ra rằng:
Công nghệ, thứ gắn liền với lợi ích kinh doanh, được xem là cách duy nhất để giải quyết những vấn đề này, nhưng thực ra chúng ta không thấy hết được mạng lưới bí ẩn thâm sâu trong các mối tương quan, và vì thế, giải quyết một vấn đề này lại tạo ra nhiều vấn đề khác.[10]
Sử dụng công nghệ cách thiếu khôn ngoan là một phần của mô hình kỹ trị đang được áp dụng rộng rãi trong sự phát triển kinh tế và xã hội đã và đang tạo nên những hậu quả tiêu cực nghiêm trọng cho hệ sinh thái nhân bản và tự nhiên. Đức Thánh Cha Phanxicô nhận định mô hình kỹ trị là “một mô hình không phân biệt và một chiều”, hướng đến “sự tiến bộ vô biên và vô hạn” bằng cách làm chủ, sở hữu, điều khiển, thao túng và biến đổi những đối tượng khác.[11] “Điều đó đặt trên nền tảng sự gian dối là có một nguồn cung cấp vô biên các tài sản của trái đất, và điều này dẫn đến việc hành tinh đang bị vắt cạn vượt quá khỏi mọi giới hạn.”[12] Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi nhân loại phải có một cái nhìn mới, một lối tiếp cận mới với cuộc sống, giáo dục, thiết lập chính sách và một linh đạo mới để đương đầu với sự thống trị ngày càng nhiều của mô hình kỹ trị.
Chúng ta không cần mô hình kỹ trị để giải quyết các vấn đề môi trường, nhưng chúng ta cần đưa ra những phương cách để cổ võ cho “sự toàn vẹn sinh thái và phát triển trọn vẹn con người.”[13] Để đạt được một nền sinh thái toàn diện, chúng ta trước hết cần quan tâm đến sự thăng tiến nhân bản đích thực và công ích, và điều này cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến tình trạng của sinh thái tự nhiên. Thật vậy, “ngôi nhà chung” của chúng ta được chăm sóc tốt hay không phần lớn phụ thuộc vào cách nhân loại phát triển như thế nào trong các chiều kích kinh tế, xã hội, chính trị và tâm linh. Khi mất đi sự cân bằng trong “hệ sinh thái nhân bản” giữa người với người, chúng ta cũng có thể dự đoán được sự phá hủy và bóc lột môi trường tự nhiên.[14]
(2) Nền văn hóa mới
Như đã trình bày trong Chương 1, môi trường kỹ thuật số với nhiều khía cạnh khác nhau không những mang lại nhiều cơ hội do sự phát triển và lan truyền của công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại (CNTT-TT), nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều thách đố cho xã hội và Giáo hội. Về phần mình, Giáo hội luôn tỏ ra rất nhạy bén với những điều đang diễn ra trên thế giới, cân nhắc kỹ lưỡng những tác động tích cực cũng như tiêu cực của nó đến hạnh phúc của nhân loại trong “nền văn hóa mới” được hình thành bởi công nghệ truyền thông hiện đại.
Hiện nay, có hai trường phái tư tưởng cơ bản liên quan đến nền văn hóa mới nảy sinh trong thời đại kỹ thuật số. Quan điểm đầu tiên cho rằng nền văn hóa hiện tại có thể được tái tạo dưới dạng kỹ thuật số khi con người có nhiều trải nghiệm cuộc sống kết nối với không gian kỹ thuật số hơn. Trường phái tư tưởng thứ hai cho rằng nền văn hóa kỹ thuật số có tính thống trị đang nổi lên là một nền văn hóa tách biệt.[15] Khi các nền tảng kỹ thuật số hiển hiện rõ ràng hơn trong xã hội, có lẽ mô hình thứ hai – vốn đến từ trường phái tán thành ý tưởng về một nền văn hóa kỹ thuật số mới – sẽ là mô hình phổ biến về văn hóa truyền thông trong hiện tại và tương lai.
Thời đại kỹ thuật số với nền văn hóa và ngôn ngữ riêng của nó, mở ra cho loài người những cách thức giao tiếp mới và khác biệt. Những phương thức giao tiếp mới truyền cảm hứng cho những lối suy nghĩ, hành vi và mối tương quan mới, từ đó dẫn đến các kết quả khác nhau, cả tích cực lẫn tiêu cực. CNTT-TT từng được xem như là một công cụ của truyền thông, giờ đây đã biến thành một lãnh thổ mới, một “ngôi làng toàn cầu”, một nơi cưu mang những giá trị và nét văn hóa riêng. Nền văn hóa mới này ngày càng thấm nhập vào cuộc sống của con người thời hiện đại và ảnh hưởng đến cách họ nhìn nhận và cảm nghiệm về chính bản thân mình. Khi hiện trên mạng xã hội, cách chúng ta định giá qua lượt thích (like), bình luận (comment), chia sẻ (share) và những thứ khác có xu hướng xác định ý thức của chúng ta về căn tính của mình. Một người nào đó càng có nhiều người theo dõi thì vị thế xã hội của họ càng cao. Tương tự như vậy, hình ảnh của chúng ta trên mạng xã hội nếu lôi cuốn được nhiều người, thì chúng ta càng dễ dàng đánh giá cao về bản thân. Điều này cổ võ mạnh mẽ cho chủ nghĩa cá nhân vốn tập trung vào các ưu tiên và quyết định của “Tôi”: điều gì làm tôi hài lòng, điều gì làm tôi hạnh phúc, điều gì khiến tôi thoải mái, v. và v.v. Có thể nói rằng, nền văn hóa mới này ủng hộ mạnh mẽ cho những gì nhanh chóng, dễ dàng và thoải mái. Chủ trương tìm ra cách để rút gọn các tiến trình nhằm gia tăng năng suất dẫn con người thời nay đến não trạng luôn muốn nhận được sự thỏa mãn ngay lập tức. Chúng ta ưa chuộng sự kết nối nhanh, giao dịch nhanh và nhận được kết quả nhanh.
Trong thời gian đại dịch Covid-19, tôi đã làm quen với việc mua hàng online qua nền tảng Lazada. Thời gian đầu tôi mua một số món hàng cần thiết như kem đánh răng, dầu gội đầu, sữa tắm vì tôi ngại đi tới những nơi đông người. Tuy nhiên, sau khi tình hình dịch đã được cải thiện, mặc dù tôi đã được tiêm đầy đủ hai mũi vaccine và có thể đi lại khá thoải mái, tôi vẫn có thói quen tìm đến Lazada để mua những món đồ khác vốn có bán trong các trung tâm mua sắm gần nhà. Trước khi chọn mua một món hàng nào đó, tôi thường đọc qua những bình luận mà các khách hàng để lại. Một điều có thể thấy được là đa số các khách hàng lưu tâm đến tốc độ gửi hàng của người bán. Nhiều người chỉ mới nhận được hàng, chưa kịp sử dụng, nhưng đã để lại phản hồi chỉ để bình luận về tốc độ gửi hàng. Họ cảm thấy hài lòng nếu họ nhận được hàng trong vòng một vài ngày sau khi đặt hàng. Việc các trang web thương mại như Lazada, Shopee và hàng loạt nền tảng mua sắm trực tuyến mọc lên liên tục là những ví dụ điển hình nói lên nỗ lực đáp ứng nhu cầu thỏa mãn tức thời của con người ngày nay. Giờ đây, bất kỳ ai cũng có thể nhận được những thứ mình cần có thông qua các trang web hoặc ứng dụng giao dịch, mua bán.
Mạng xã hội cũng vượt qua không gian và thời gian với khả năng cung cấp các công cụ truyền thông có tỷ lệ hiệu quả vượt trội. Thật không may, những lợi ích này lại đi kèm với một cái giá khá đắt phải trả. Nó làm chúng ta ngày càng thiếu kiên nhẫn, mất tập trung cũng như khó xây dựng các mối tương quan thực sự. Khi chúng ta ngày càng đầu tư vào việc xây dựng các mối tương quan ảo hoặc trực tuyến, việc trò chuyện trực tiếp dường như khó hơn đối với chúng ta. Hơn nữa, nền văn hóa do CNTT-TT định hướng còn vượt ra ngoài lĩnh vực truyền thông, mở rộng đến các khía cạnh chính trị, kinh tế và văn hóa, tạo nên một "ngôi làng toàn cầu" như là một thực thể sống động. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chỉ ra sự xuất hiện không thể chối bỏ của “nền văn hóa mới” do truyền thông kỹ thuật số tạo ra trong Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ Vụ Đấng Cứu Thế). Văn kiện khuyến khích hội nhập việc Phúc Âm hóa hoặc sứ điệp Kitô giáo vào “Nền văn hóa mới” do truyền thông hiện đại tạo ra.[16] Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng “những cách thức truyền thông mới, với ngôn ngữ mới, kỹ thuật mới và tâm lý mới” [17] đánh dấu bối cảnh truyền thông mới lạ ảnh hưởng đến các khía cạnh khác nhau của đời sống con người đương đại.
(3) Nền tảng thần học cho mục vụ truyền thông
(3.1) Khái niệm về Truyền thông
Để hiểu được nền văn hóa truyền thông mới này và phân định một cách hiệu quả các dấu chỉ của thời đại, chúng ta buộc phải tìm hiểu sâu hơn về thần học của Giáo hội về truyền thông. Khái niệm thần học về truyền thông, bao gồm cả CNTT-TT, dựa trên khái niệm cơ bản của Thần học Kitô giáo là một Chúa Ba Ngôi – Cha, Con và Thánh Thần. Khi dẫn giải dựa trên mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi như là nền tảng của thần học truyền thông, nhà thần học người Đức Gisbert Greshake phát biểu rằng: “Truyền thông (communication) từ nguyên thủy là một ý tưởng thần học nhất định dựa trên sự mặc khải của Kitô giáo, đề cập đến các nhận thức trọng tâm của Kitô giáo về Thiên Chúa và thế giới". [18]
Greshake tiếp tục giải thích từ “communication” trong cách sử dụng phổ biến và cả trong quan điểm triết học. Theo Greshake, từ “communication” (truyền thông) có nguồn gốc trong từ “mun”, có nghĩa là một cái gì đó giống như một ngưỡng cửa hoặc một khuôn viên. Nguyên nghĩa này có thể được áp dụng cho một phòng chung hoặc một nơi sinh hoạt mà ở đó mọi người đều nương tựa vào nhau.
Quan điểm triết học dựa trên từ “munus” trong tiếng Latinh, có nghĩa là quà tặng. Như vậy, truyền thông muốn nói đến giao tiếp giữa người với người như một hành vi phục vụ tha nhân và trao tặng cho nhau một món quà mà nhờ đó cả hai được hiệp thông với nhau. Nguyên ngữ này hàm ý truyền thông là một quá trình trao tặng lẫn nhau, dẫn đến kết quả cuối cùng là “sự hiệp thông”. Greshake lập luận rằng khái niệm này được xây dựng trên nền tảng “Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng đi vào trần gian và thông ban chính Ngài cho con người trong Đức Giêsu Kitô và trong Quyền năng của Thánh Thần”.[19]
Theo ý niệm này, Thiên Chúa không truyền thông một điều gì đó xa lạ với con người, nhưng là truyền thông chính Ngài qua Đức Giêsu Kitô – Đấng đã mặc lấy xác phàm để trực tiếp gặp gỡ con người và truyền thông về chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự truyền thông chính mình của Thiên Chúa trước hết xảy ra trong nội tại Ba Ngôi, sau đó là đến việc truyền thông cho con người. Vì thế, sự truyền thông chính mình của Thiên Chúa chính là cơ sở cho một nền thần học truyền thông đặc biệt.
(3.2) Những yếu tố của thần học truyền thông
Bernard J. F. Lonergan khẳng định rằng truyền thông là một mối quan tâm thần học.[20] Cùng cách hiểu đó, Karl Rahner nói về khái niệm tự truyền thông của Thiên Chúa khi bàn luận thần học. Theo Rahner, như sự nhân cách hóa của tình yêu, Thiên Chúa mặc khải chính mình như một ngôi vị, vừa là quà tặng vừa là người tặng quà (Deus Caritas Est, 1Ga 4,8). Khái niệm này được Đức Cố Hồng y Avery Dulles phát triển thêm khi ngài cho rằng thần học luôn quan tâm đến các thực tại của truyền thông. ĐHY Dulles gọi Kitô giáo là một tôn giáo của truyền thông, vì bản chất sâu xa nhất của Thiên Chúa là một mầu nhiệm tự truyền thông.[21] Mầu nhiệm này bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Mặc Khải và Nhập Thể.
Thứ nhất là mầu nhiệm Ba Ngôi. Hiểu biết của Kitô giáo về Thiên Chúa thông ban chính mình dựa trên bản tính của Thiên Chúa là Đấng có tương quan và hiệp thông với các thụ tạo. Greshake trình bày rõ khái niệm này như sau: “Thiên Chúa không phải là một người du mục đứng yên và đơn độc. Đúng hơn, Thiên Chúa là Đấng ở trong chính Ngài số nhiều: Sự sống, Tình yêu và Truyền thông”.[22]
Trong mối tương quan này, Chúa Cha sai Chúa Con và Thánh Thần của Ngài là những ngôi vị có cùng một thiên tính. Ở điểm này, Franz-Josef Eilers, SVD phân tích rằng: “Chúa Cha ‘nói’ với Chúa Con và khi làm như vậy, Người tạo ra và thông ban mọi sự Người là và Người có”. Rồi đến lượt mình, “Chúa Con kêu lên Chúa Cha và dâng hiến trọn vẹn chính mình cho Cha với sự vâng phục hoàn hảo.”[23] Theo cách hiểu tương tự, thần học gia Dòng Tên Carlo Maria Martini bình luận: “Sự sống của Thiên Chúa thân tình tới mức mà chúng ta có thể hiểu được là sự truyền thông sâu xa và liên tục không ngừng giữa các Ngôi Vị”.[24] Nói cách ngắn gọn, ba Ngôi Vị thần linh không ngừng đối thoại với nhau từ thuở vĩnh hằng.
Thứ hai là Mặc Khải. Toàn bộ Kinh Thánh nói về Thiên Chúa là một Thiên Chúa truyền thông – Ngài không ngừng thông truyền với các thụ tạo của mình. Cựu Ước cho thấy sự truyền thông nội tại của Ba Ngôi Thiên Chúa liên quan đến việc tạo dựng loài người cũng như cuộc đối thoại của Thiên Chúa với Ađam và Evà trong Vườn Địa Đàng. Hành động truyền thông này của Thiên Chúa cũng âm vang trong Tân Ước. Chủ đề xoay quanh sự kiện Lễ Ngũ Tuần với biến cố Chúa Thánh Thần ngự đến (Cv 2,1-47) được xem là Thiên Chúa đang truyền thông một lần nữa với con người. Hành động truyền thông trong Lễ Hiện Xuống phát xuất cách tự nhiên từ sự hiệp thông tình yêu của Ba Ngôi. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hợp nhất trong phạm vi truyền thông thần linh. Như Martini đã đề cập, sự tinh túy của Thượng Đế bao gồm cả “sự hiệp thông và truyền thông”.[25]
Vì vậy, biến cố Hiện Xuống biểu lộ khoảnh khắc quý giá khi Thiên Chúa tuôn đổ Thánh Thần xuống trên con người nhằm biến đổi họ trở nên những con người có khả năng truyền thông xuất sắc. Đó cũng chính là thời điểm Thiên Chúa tái khởi xướng và phục hồi mối tương quan thần linh với con người, được đánh dấu bằng sự tuôn đổ Thánh Thần cách nhưng không. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Thánh Linh được trao ban trào tràn cho các Tông Đồ với ơn nói tiếng lạ, khả năng hiểu được những ngôn ngữ khác nhau mà mọi người trên thế giới sử dụng. Lễ Ngũ Tuần chính là sự truyền thông, và do đó, sứ mạng chính của Giáo hội là truyền đạt Sứ điệp ở đây và lúc này của mọi thời đại.
Thiên Chúa tác động bằng việc tuôn đổ Thánh Linh vào Lễ Ngũ Tuần biểu trưng cho việc Hội Thánh được thiết lập bởi chính Thiên Chúa và Thánh Linh. Thánh Linh là Đấng đã sai các Tông Đồ ra đi, ban cho Hội Thánh khả năng thông truyền và làm chứng cho Tin Mừng cho đến ngày tận thế. Hồng ân Thánh Thần sẽ mang đến cho Hội Thánh ngày nay một trái tim mới, một ngôn ngữ mới và một khả năng truyền thông mới. Như thế, chúng ta hoàn tất sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa loài người qua đời sống chứng ta và rao giảng Tin Mừng.
Cuối cùng là Nhập Thể. Nền tảng Kinh Thánh của truyền thông Kitô giáo là sự truyền thông Ba Ngôi. Sự hiệp thông Ba Ngôi cho thấy một sự truyền thông thường xuyên và liên tục giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha không ngừng truyền thông với Chúa Con, và Chúa Con truyền thông mọi điều Ngài đã nghe từ Chúa Cha cho thế gian trong sự vâng phục hoàn toàn. Logos (Ngôi Lời – Chúa Con) đã truyền đạt một cách hoàn hảo và thành công sứ điệp của Chúa Cha cho thế giới và con người. Thế nên, Chúa Giêsu được biết đến như là Người Truyền Thông Hoàn Hảo (Perfect Communicator) của Thiên Chúa.
Sứ mạng cơ bản của Chúa Giêsu trên trần gian là mặc khải dung mạo của Chúa Cha, hay nói cách khác, là Ngài bày tỏ cho nhân loại thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho trần gian. Tác giả của Phúc Âm thứ tư khẳng định nền tảng Kinh Thánh về việc Chúa Giêsu là Đấng mặc khải duy nhất về Chúa Cha: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Nguồn mạch tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại đến từ tình yêu của Chúa Cha thông qua mối tương quan Ba Ngôi. Vì thế, tình yêu của Chúa Cha trở nên máu thịt trong biến cố Nhập Thể của Chúa Con. Chúa Cha – Đấng là tình yêu – đã gửi Ngôi Lời đến, Lời thông ban tình yêu và chính bản thân Thiên Chúa. Với tư cách là Đấng mặc khải trọn hảo về Chúa Cha, Chúa Giêsu không chỉ truyền đạt các khái niệm, ý tưởng và chỉ dẫn cho các thính giả của Ngài. Thật ra, như được mô tả một cách hùng hồn trong Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio, sự truyền thông của Chúa Giêsu “không chỉ là sự thể hiện ý tưởng và chỉ ra cảm xúc, nhưng ở mức độ sâu sắc nhất là sự hiến thân trong tình yêu”.[26]
Chúa Giêsu, với tư cách là Đấng mặc khải hoàn hảo về Chúa Cha, đã thông truyền sự “hiến thân vì tình yêu” trong sứ mạng của Ngài ra sao? Tin Mừng Máccô cho chúng ta biết về đời sống thiêng liêng của Chúa Giêsu, trong đó và qua đó, Ngài bày tỏ tình yêu của Chúa Cha. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1,35). Các trình thuật Phúc Âm khác cũng kể lại rằng Chúa Giêsu đã cầu nguyện liên lỉ trước khi đưa ra những quyết định quan trọng trong cuộc đời của Ngài. Vì thế, mọi hành động của Chúa Giêsu luôn thể hiện sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Ngài. Chúa Giêsu cũng dạy cho các môn đệ cách nguyện cầu với Chúa Cha (Mt 6,9-15) để họ có thể kết hợp với Chúa Cha cách mật thiết hơn. Với niềm tín thác thẳm sâu và với thái độ cầu nguyện không ngừng, Chúa Giêsu đón nhận tình yêu của Chúa Cha và đắm mình trong suối nguồn thiêng liêng ấy để bổ sức cho sứ mệnh truyền thông Tin Mừng đến cho mọi người.
(3.3) Truyền thông mục vụ và truyền thông loan báo Tin Mừng
Khái niệm thần học truyền thông theo cách hiểu toàn diện tương ứng chặt chẽ với các lĩnh vực khác, bao gồm cả truyền thông xã hội. Điều này không nhất thiết có nghĩa là trong các cuộc thảo luận về thần học truyền thông, thì chủ đề chỉ đề cập đến các phương tiện truyền thông. Theo Franz-Josef Eilers, khái niệm thần học truyền thông “không bắt đầu với phương tiện truyền thông hoặc phương tiện kỹ thuật, nhưng hơn thế, nó bắt đầu với trung tâm của thần học là chính Thiên Chúa. Truyền thông trở thành con mắt để nhìn thấy toàn bộ thần học vì Thiên Chúa của Kitô giáo là một Thiên Chúa truyền thông.”[27] Khái niệm này ngụ ý rằng truyền thông được đưa vào trung tâm của thần học, trở thành một nguyên lý thần học. Ở đây, Thiên Chúa được nhận biết là Thiên Chúa đang thông truyền, trong khi sự mặc khải và công trình cứu độ của Thiên Chúa được xem là những diễn biến truyền thông. Một suy luận hợp lý trong cách hiểu này là “thần học truyền thông xem xét toàn bộ thần học dưới lăng kính truyền thông.”[28]
Để giải thích khái niệm trên mức độ thực tế hơn, có hai cách tiếp cận của thần học truyền thông là truyền thông mục vụ (pastoral communication) và loan báo Tin Mừng (evangelizing communication). Truyền thông mục vụ là hình thức truyền thông nội bộ trong cộng đoàn Kitô giáo và Hội Thánh. Truyền thông mục vụ được hiểu như một phần của thần học mục vụ đề cập đến việc áp dụng thần học vào đời sống con người và xã hội. Điều này được thể hiện trong việc rao giảng, dạy giáo lý, suy niệm Kinh Thánh cũng như các cử hành phụng vụ của Giáo hội. Thực ra, khái niệm truyền thông mục vụ bắt nguồn với hạn từ “pastor” hay mục tử. Mục tử là người chia sẻ và liên hệ với đàn chiên theo phương cách và nội dung khác nhau trong quá trình giao tiếp.
Theo cách hiểu này, “truyền thông mục vụ là thông truyền để chăm sóc mục vụ, dẫn dắt, xây dựng, duy trì và đào sâu đức tin.”[29] Theo nghĩa hẹp, truyền thông mục vụ là truyền thông cho và với các thành viên trong Giáo hội. Theo nghĩa rộng, kiểu thức mục vụ này đề cập đến mọi hoạt động của Giáo hội và các Kitô hữu.[30]
Truyền thông loan báo Tin Mừng lại là sự truyền thông ngoại tại hướng đến những người bên ngoài Giáo hội, đặc biệt là những người chưa được rửa tội hoặc chưa biết Đức Kitô. Giáo hội không chỉ tồn tại vì cộng đồng tín hữu, mà còn được sai đi để chia sẻ và loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới. Trong Cẩm nang cho Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành có đề cập đến sứ mạng loan báo Tin Mừng như sau:
Hội Thánh hiện hữu để loan báo Tin Mừng. Chúng ta không bao giờ được phép tập trung vào chính mình. Sứ mạng của chúng ta là làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa toàn thể gia đình nhân loại. Tiến trình hiệp hành mang chiều kích truyền giáo rõ nét. Mục đích của tiến trình này là giúp Hội Thánh làm chứng cho Tin Mừng cách hữu hiệu hơn, đặc biệt với những người sống ở vùng ngoại vi của thế giới chúng ta xét về mặt tâm linh, xã hội, kinh tế, chính trị, địa lý và hiện sinh. Theo cách này, hiệp hành là con đường qua đó Hội Thánh có thể hoàn thành cách hiệu quả hơn sứ mạng loan báo Tin Mừng cho thế giới, như nắm men làm cho Nước Thiên Chúa mau đến.[31]
Như vậy, cách thức Giáo hội thi hành sứ mạng của mình với những người bên ngoài hoặc bên lề Giáo hội phản ánh nỗ lực thông truyền Nước Thiên Chúa vượt ra ngoài ranh giới hạn hẹp của Giáo hội. Khái niệm cơ bản của nó dựa trên “Kerygma, loan báo hoặc truyền giáo”,[32] trong đó đối thoại được coi là một phần thiết yếu. Đối thoại dưới ánh sáng của truyền thông loan báo Tin Mừng là “cách thức chuẩn mực và cần thiết cho mọi hình thức truyền giáo của sứ mệnh Kitô giáo, cũng như mọi khía cạnh của nó, cho dù người ta nói về sự hiện diện đơn giản và làm chứng, phục vụ hay rao giảng trực tiếp. Bất kỳ cảm thức truyền giáo nào không được thấm nhuần bởi tinh thần đối thoại như vậy sẽ đi ngược lại những đòi hỏi của nhân bản đích thực và chống lại giáo huấn của Phúc Âm.”[33]
Văn kiện mang tính bước ngoặt Nostra Aetate khẳng định tầm quan trọng của việc đối thoại với các tôn giáo khác như một cách truyền thông loan báo Tin Mừng. Tuyên ngôn này cung cấp cho người Công giáo một ý thức mới về lệnh truyền mang tính ngôn sứ cần được thực hiện để phát huy các giá trị tâm linh trong các truyền thống tôn giáo khác như Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn giáo và Phật giáo. Tài liệu cũng khơi dậy một cách thế khiêm tốn hơn nhưng có tính sáng tạo để trình bày một cách toàn vẹn những gì Thiên Chúa đã mặc khải cho con người. Mặc dù Nostra Aetate không bỏ qua những khác biệt cơ bản giữa Công giáo và các tôn giáo khác, nhưng bản tuyên ngôn cố gắng chú ý đúng mức đến những đặc điểm chung của các truyền thống tôn giáo khác nhau.
(4) Ý nghĩa thần học
(4.1) Định hướng
Định hướng của Giáo hội đối với những tiến bộ công nghệ sẽ có tác động đáng kể đến cách nhìn và sử dụng công nghệ kỹ thuật số của các bậc vị vọng thuộc phẩm trật Giáo hội và các thành viên ở mọi cấp độ. Về vấn đề này, ba vị Giáo Hoàng gần đây đã đưa ra rất nhiều hướng dẫn thông qua các văn kiện, bài phát biểu và bài giảng khác nhau. Về cơ bản, các ngài có cách nhìn tích cực đối với công nghệ kỹ thuật số, mặc dù có những cảnh báo về những mảng tối rất thực đi liền với tiến bộ công nghệ. Những phần thảo luận ở chương trước cho thấy rõ ràng rằng những nhắc nhở này không mang tính báo động và phản ứng thái quá. Ngay từ lúc đầu của thiên niên kỷ mới, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thể hiện một quan điểm có tính thực tiễn về internet. Trong sứ điệp ngày Truyền thông Thế giới lần thứ 36, ngài đã viết về internet như sau: “Giáo hội tiếp cận phương tiện mới này với chủ nghĩa hiện thực và sự tự tin. Giống như các phương tiện truyền thông khác, nó chỉ là một phương tiện, không phải là cùng đích. Internet có thể mang lại những cơ hội lớn lao cho việc truyền giáo nếu biết sử dụng và nhận thức rõ ràng điểm mạnh và điểm yếu của nó.”[34] Đức Bênêđíctô XVI cũng có quan điểm tương tự về công nghệ kỹ thuật số như được phản ánh trong sứ điệp của ngài cho ngày Truyền thông Thế giới lần thứ 45 gần một thập kỷ sau đó: “Như với mọi thành quả khác của tài trí nhân loại, các công nghệ truyền thông mới phải được dùng để phục vụ cho thiện ích toàn diện của cá nhân và toàn thể nhân loại. Nếu được sử dụng cách khôn ngoan, chúng có thể góp phần thỏa mãn khát vọng về ý nghĩa, chân lý và sự hiệp nhất vốn vẫn là khát vọng sâu xa nhất của mỗi con người.”[35]
Trong Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm Vui Của Tin Mừng), Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh tầm quan trọng cần có định hướng đúng đắn cho bất kỳ ai tham gia vào sứ mạng Phúc Âm hóa trong kỷ nguyên kỹ thuật số.[36] Đối với ngài, việc truyền giáo và truyền thông mục vụ trong môi trường kỹ thuật số không lệ thuộc vào các công cụ truyền thông nhưng cần phải phụ thuộc nhiều vào sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Toàn bộ mục vụ truyền thông của Giáo hội về cơ bản được hiểu là công việc của Chúa Thánh Thần; dưới lăng kính này, loan báo Tin Mừng được xem là sự cộng tác với Chúa Thánh Thần. Khi nhìn nhận vai trò thiết yếu của Chúa Thánh Thần, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi sự trỗi dậy của “những người truyền giáo đầy Thánh Thần”, những người “can đảm mở rộng tâm hồn trước hoạt động của Chúa Thánh Thần.”[37] Hơn nữa, Đức Thánh Cha khẳng định rằng, “Phúc Âm hóa đầy tràn Thánh Linh là một công cuộc được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, vì Ngài là linh hồn của Giáo hội và chính Ngài công bố Tin Mừng”.[38] Chúa Thánh Thần không chỉ trao quyền mà còn làm cho người rao giảng Tin Mừng trở nên mạnh mẽ trước những thách đố, khủng hoảng và cám dỗ gây ra bởi các công nghệ truyền thông mới trong kỷ nguyên kỹ thuật số.
(4.2) Linh đạo truyền thông
Một trong những yếu tố quan trọng trong thần học truyền thông và là một phần thiết yếu trong mọi hoạt động truyền thông mục vụ và truyền giáo của Giáo hội là linh đạo truyền thông. Linh đạo này chủ yếu dựa trên tác động của Chúa Thánh Thần. Việc có một linh đạo truyền thông ý nghĩa là điều cần thiết đối với những người làm truyền thông Kitô giáo. Linh đạo truyền thông mang ba chiều kích: (1) mở ra với Thiên Chúa, (2) mở ra với bản thân, và (3) mở ra với tha nhân.[39] Tinh thần cởi mở, có thể trở thành một loại linh đạo cá nhân, giúp những người làm truyền thông Kitô giáo kiện cường nỗ lực mục vụ truyền thông của mình. Tinh thần này giúp xây dựng mối tương quan mật thiết và cá vị với Thiên Chúa, được nuôi dưỡng và duy trì qua việc thường xuyên cầu nguyện, đọc Kinh Thánh cũng như suy tư cá nhân. Một linh đạo như thế sẽ dẫn dắt những người làm truyền thông kín múc được sức mạnh thiêng liêng và gia tăng năng lượng cho công việc mục vụ của mình.
Nói một cách triệt để hơn, linh đạo truyền thông thể hiện được vị trí trung tâm của Chúa Giêsu Kitô trong truyền thông kỹ thuật số. Những người làm truyền thông nhất thiết phải hiểu biết một cách toàn diện về Chúa Giêsu như là trung tâm của toàn bộ nỗ lực truyền giáo. Trọng tâm và ưu tiên của sứ mạng của Chúa Giêsu bắt nguồn từ thực tế Ngài là người kiến tạo duy nhất của sứ mạng của Giáo hội. Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng: “Không thể có việc Phúc Âm hóa thực sự nếu không công bố minh nhiên Chúa Giêsu là Chúa và không có sự ưu tiên công bố Chúa Giêsu trong mọi công cuộc Phúc Âm hóa.”[40] Sứ điệp nền tảng phải được công bố qua bất kỳ hình thức công nghệ truyền thông mới nào đều là “tình yêu cá vị của Thiên Chúa làm người, Đấng đã hiến thân vì chúng ta, Đấng đang sống và ban cho chúng ta ơn cứu độ và tình bạn của Ngài.”[41]
(4.3) Đón nhận toàn thể con người
Trong thời đại kỹ thuật số, những thách đố mục vụ của chúng ta có thể có những hình thức và chiều kích mới, nhưng ưu tiên vẫn không hề thay đổi, đó là con người. Với lòng quan tâm tuyệt đối đến hạnh phúc của nhân loại, các Đức Thánh Cha đã có tầm nhìn xa trông rộng để cảnh báo về những nguy cơ lớn lao trong xã hội do việc lạm dụng, sử dụng không đúng hay thiếu ý thức các phương tiện truyền thông mới. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng việc phát triển CNTT-TT nên tập trung nhiều vào con người hơn là các phần mềm hay phần cứng của các phương tiện truyền thông. Giáo hội phải bảo vệ căn tính của con người, sự tự do, quyền lợi và trách nhiệm của họ.[42] Ngài cũng kêu gọi mọi người quan tâm đặc biệt đến việc bảo vệ trẻ em vốn là những nạn nhân dễ bị tổn thương nhất trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội một cách thiếu hiểu biết và kinh nghiệm. Việc sử dụng khôn ngoan các công cụ kỹ thuật số và truy cập vào nội dung phù hợp sẽ giúp trẻ phát triển tinh thần và thể chất cũng như huấn luyện lương tâm.Vì thế, chúng ta cần phải cảnh giác khi hướng dẫn trẻ sử dụng CNTT-TT, hầu mang lại một tương lai tốt đẹp cho thế hệ mới. Để đạt được điều này, điều tối quan trọng là cha mẹ, giáo viên, những người làm truyền thông xã hội và tất cả các Kitô hữu phải nghiêm túc thực hiện vai trò của mình trong lãnh vực này. Giáo hội mong mỏi các nhà lãnh đạo mục vụ, những người lớn có nhiệm vụ chăm sóc người trẻ và các nhà giáo dục phải thận trọng hơn trong việc lựa chọn, giải thích và chất vấn về nội dung mà giới trẻ truy cập trên internet. Khi giới trẻ được huấn luyện để có một lương tâm tốt và nền tảng đức tin vững chắc, họ sẽ có khả năng vận hành trong không gian kỹ thuật số mà không bị trôi dạt giữa những dòng chảy phù phiếm.
(4.4) Sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Dấu hiệu truyền thông trong Lễ Ngũ Tuần được biểu lộ cách tỏ tường qua sự tuôn đổ Chúa Thánh Thần trên các Tông Đồ.[43] Việc Chúa Thánh Thần ngự đến đi kèm với hai hiện tượng đáng chú ý: âm thanh từ trời như gió thổi mạnh và sự xuất hiện của hình lưỡi lửa ngự trên mỗi người và tách biệt họ khỏi những người khác. Những sự kiện kỳ lạ này chỉ đến sự tỏ hiện thần linh - một biểu hiện trực quan về sự hiện diện của Thiên Chúa. Những âm thanh từ trời cao ở ngay bên chứng tỏ rằng sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa đến ngay lập tức cho những người có mặt ở đó.[44] Carlo Maria Martini lập luận rằng cấu trúc hình lưỡi lửa có thể được coi là “biểu tượng truyền thông của con người”.[45] Được thúc giục và đảm bảo về quyền năng của Chúa Thánh Thần, các môn đệ được Thiên Chúa sai đi để can đảm làm chứng cho Nước Trời, công bố sứ điệp Phúc Âm trong vai trò những người thông truyền thực sự của Thiên Chúa.
Một trong những tác động của việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các môn đệ là họ được tham gia vào mối tương quan hiệp thông thần linh với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tình trạng hiệp thông này kiện cường sứ vụ truyền thông rao giảng Tin Mừng với tư cách là chứng tá ngôn sứ của Thiên Chúa “tại Giêrusalem, khắp xứ Giuđê và Samari, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Mục tiêu của Giáo hội khi tiếp tục sứ mệnh loan báo trong kỷ nguyên kỹ thuật số ngày nay vẫn không hề thay đổi: đó chính là truyền thông về tình yêu của Thiên Chúa và các giá trị của Vương Quốc Nước Trời, cổ võ “sự hiểu biết lẫn nhau và chia sẻ ước vọng” giữa nhân loại, thúc đẩy họ “đến với công lý và hòa bình, thiện chí và đức ái năng động, giúp đỡ lẫn nhau, yêu thương và cuối cùng là hiệp thông”.[46] Vì vậy, việc rao giảng được thực hiện bởi những người được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ “thúc đẩy các hình thức tiến bộ của con người và tăng cường sự hợp tác giữa con người với nhau cho đến khi có một sự hiệp thông đích thực giữa họ.”[47]
(4.5) Chúa Giêsu – Nhà Truyền Thông Hoàn Hảo
“Trong khi ở trần gian, Đức Kitô bày tỏ chính Ngài là Đấng Truyền Thông Hoàn Hảo” (Perfect Communicator).[48] Điều này được thể hiện cách đặc biệt trong lối rao giảng của Chúa Giêsu. Ngài có phương cách truyền thông đến từ con tim, thể hiện qua việc thấu suốt tâm tư và ước muốn của con người, để rồi Ngài đáp lại nhu cầu cụ thể của những ai mà Ngài gặp gỡ trên đường sứ vụ. Chúa Giêsu công nhận và tôn trọng thế giới quan, văn hóa, kiến thức và kinh nghiệm sống của từng cá nhân có cơ hội tiếp xúc với Ngài. Ngài nói chuyện với mọi người bằng ngôn ngữ mà họ có quen thuộc, Ngài sử dụng các từ ngữ và hình ảnh thông thường để giải thích về Nước Trời và truyền đạt Tin Mừng của Thiên Chúa. Trong cách giao tiếp có chủ đích và được thiết kế riêng cho từng cuộc gặp gỡ cụ thể, Chúa Giêsu đã tạo cơ hội cho những người tiếp xúc với Ngài kín múc được suối nguồn nuôi dưỡng thiêng liêng. Đồng thời, Chúa Giêsu cũng dùng lời giáo huấn của Ngài để chất vấn về cuộc sống riêng tư của họ, khơi dậy những suy tư thầm kín trong lòng họ. Sau khi đi trên mặt nước và làm cho sóng yên biển lặng, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ khi các ông vẫn còn đang trong tình trạng hoảng sợ: “Đức tin của anh em ở đâu?” (Lc 8,25). Đối với người thanh niên giàu có, bị của cải vật chất ngăn cản anh đến với Chúa, Đức Giêsu khuyến dụ: “Anh chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì anh có mà phân phát cho người nghèo, và anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Lc 18,22).
Thật vậy, Chúa Giêsu đã chứng tỏ mình là Người Thông Truyền Hoàn Hảo vì Ngài nói với uy quyền thực sự đến từ Thiên Chúa. Ngài không những có quyền năng làm người khác kinh ngạc và thán phục mà còn chất vấn những ai đến nghe lời Ngài. Theo Thánh Mátthêu, “Khi Đức Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt 7,28-29). Lời của Thiên Chúa là nguyên lý tối hậu, đó là lý do cho thấy tại sao những lời dạy của Chúa Giêsu lại có sức mạnh như vậy. Tuy nhiên, tư cách là Đấng Truyền Thông Hoàn Hảo của Chúa Giêsu trong các sách Phúc Âm không những được phản ánh trong lời của Ngài, mà còn trong hành động của Ngài, chẳng hạn như rất nhiều lần Chúa chữa lành những người mắc các chứng bệnh khác nhau. Chúa Giêsu hết lòng chăm sóc người bệnh bằng cách âu yếm chạm vào tay họ, qua đó Ngài thông truyền quyền năng yêu thương của Ngài. Thuật ngữ Hy Lạp haptesthai (đụng chạm), chứng tỏ rằng cái chạm của Chúa Giêsu có quyền năng chữa lành những người bị bệnh và phục hồi sự sống cho người chết. Chúa Giêsu đã chứng minh rằng truyền thông hiệu quả không chỉ có sức mạnh soi sáng, gây ấn tượng và thách đố, mà còn có khả năng an ủi, chữa lành và ban sự sống. “Truyền thông không chỉ là thể hiện ý tưởng và bày tỏ cảm xúc. Truyền thông ở mức độ sâu sắc nhất là sự cho đi chính bản thân trong tình yêu. Quả thật, truyền thông của Chúa Giêsu là thần khí và sự sống.”[49]
(5) Lời và hành động trong truyền thông mục vụ và loan báo Tin Mừng
Cho dù trong không gian vật lý hay kỹ thuật số, những người truyền thông đức tin phải rập khuôn việc truyền thông của mình theo gương mẫu của Chúa Giêsu là nhà truyền thông xuất sắc nhất của mọi thời đại. Chúa Giêsu, Nhà Truyền Thông Hoàn Hảo, đã đưa ra một khuôn mẫu cho việc thực hành truyền thông khi khẳng định rằng Ngài chính là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Trong ba chiều kích này, chúng ta tìm thấy ý nghĩa và mục tiêu của truyền thông thực sự. Trước hết, khi Chúa Giêsu công bố chính Ngài là con đường dẫn đến Thiên Chúa, nguồn sống đích thực, Ngài đang nói về một lối hiện hữu và hành động mới trên trần gian. Đối với người Kitô hữu, đường lối của Đức Kitô bao gồm thái độ sám hối tội lỗi, yêu thương Thiên Chúa và người thân cận (ngay cả kẻ thù), công bố Nước Trời – nơi mà các giá trị tốt lành như sự hòa hợp, hòa bình và công lý hiện diện một cách chan chứa đầy tràn. Truyền thông của chúng ta phải đóng vai trò như GPS (hệ thống định vị toàn cầu) dẫn người khác đi đúng đường, và đưa họ đến đích cuối cùng là Nhà Cha toàn năng trên trời.
Tiếp đến, khi Chúa Giêsu tuyên bố chính Ngài là Sự Thật, Ngài đã bày tỏ cho các môn đệ biết điều cần phải có để mang lại sự tự do (Ga 8,32) và sự sống sung mãn đích thực. Chúa Giêsu khẳng định rằng Ngài đến thế gian này không có mục đích nào khác hơn là “để làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37). Sự thật không phải là xuôi theo cảm xúc và sở thích cá nhân, không phụ thuộc vào xu hướng nhất thời hay những nội dung lan truyền mạnh mẽ (viral content) và các thẻ (hashtags) phổ biến. Các nhà truyền thông Kitô giáo sẽ thực hiện trách nhiệm của mình tốt nhất và phù hợp nhất khi họ can đảm nói lên sự thật mà Chúa Giêsu và Hội Thánh đã truyền dạy. Thông tin không đúng và sai sự thật bắt nguồn từ ma quỷ (Mt 5,37) và cản trở chúng ta bước đi trên nẻo đường chân chính.
Cuối cùng, Chúa Giêsu tuyên bố rằng “Ta đã đến để chúng được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Để có sự sống sung mãn, chúng ta phải đi trên nẻo chính đường ngay được soi sáng bởi chân lý. Chúa Giêsu khẳng định Ngài là hiện thân của Đường, Sự Thật, và Sự Sống. Thánh Phêrô hiểu và đã công bố rằng Chúa Giêsu có lời ban sự sống đời đời (Ga 6,68). Lời ban sự sống đời đời là Lời của Sự Thật, ngay cả khi đối mặt với quyền lực và nguy hiểm. Truyền thông sự sống không chỉ là nói những lời tốt đẹp để động viên, cảm thông và an ủi, nhưng còn đòi hỏi phải có những hành động cụ thể phản ánh tình liên đới, sự tin tưởng và đỡ nâng. Truyền thông mang lại sự sống đòi hỏi phải có những hành động như người Samari nhân hậu khi ông thể hiện lòng bác ái cách rõ ràng với nạn nhân người Do Thái bị cướp và hành hung trên đường. Người Samari không chỉ nhìn nạn nhân với ánh mắt thương hại, nói vài lời an ủi, hứa sẽ cầu nguyện cho người xấu số rồi tiếp tục cuộc hành trình của mình, nhưng ông đã có những hành động cụ thể và cần thiết để cứu giúp người bị nạn. Người Samari tốt lành vẫn thực hiện chuyến đi của mình như đã dự định, nhưng ông sẵn sàng bị chậm trễ và bị chi phối bởi một người anh em đồng loại (cho dù không cùng tín ngưỡng) đang gặp nguy kịch.
Do đó, truyền thông không chỉ là tạo kết nối thông qua từ ngữ, âm thanh, biểu tượng cảm xúc…, mà còn thông qua các hành động giúp xoa dịu những nỗi đau và làm hoan hỷ cõi lòng.[50] Thông điệp Fratelli Tutti (Tất Cả Là Anh Em) của Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta tái khám phá ý nghĩa thực sự của tương quan mà đôi khi bị bóp méo bởi công nghệ kỹ thuật số hiện đại. Đức Thánh Cha phân tích rằng các mối tương quan qua trung gian kỹ thuật số “thiếu những cử chỉ thể lý, những biểu cảm trên khuôn mặt, những khoảnh khắc thinh lặng, ngôn ngữ cơ thể, kể cả mùi hương, tay run, mặt đỏ, mồ hôi đổ, là những thứ nói lên điều gì đó và là một phần trong giao tiếp giữa con người với nhau.”[51] Trong thời đại kỹ thuật số, truyền thông mục vụ phải noi gương dung mạo tam diện của Chúa Giêsu là “Đường”, “Sự thật” và “Sự sống”. Thế nên, người làm truyền thông phải mặc lấy họa ảnh của Chúa Kitô khi loan truyền sứ điệp Kitô giáo bằng cả lời nói và việc làm.
Trong đại dịch Covid-19, mặc dù có vô số hạn chế, những người làm mục vụ ở các cấp bậc khác nhau trong Giáo hội vẫn cố gắng hết sức để kết nối với các tín hữu nhằm giúp họ vững tâm rằng Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện với họ giữa nỗi sợ hãi và đau khổ. Các tín hữu cũng cảm thấy yên tâm về sự hiện diện và đồng hành của các vị mục tử, dẫu có sự xa cách thể lý do tình trạng vi-rút lây lan nhanh. Ngoài sự hiện diện thiêng liêng và cá nhân, các nhà lãnh đạo mục vụ cũng cố gắng giúp giải thích những thắc mắc và nghi vấn về thần học mà hoàn cảnh đại dịch đã gợi lên cho nhiều người.
Những trao đổi qua lại trên đã giúp cho nhiều người tránh khỏi những quan niệm sai lầm cho rằng, đại dịch là sự trừng phạt của Thiên Chúa đối với thế giới hay đối với một thành phần nhân loại, hoặc là dấu hiệu ngày tận thế đang đến gần. Trong khả năng của mình, các nhà lãnh đạo mục vụ cũng truyền đạt những thông tin hữu ích và chính xác về bệnh Covid-19 nhằm giúp các tín hữu chăm sóc sức khỏe thể lý. Về khía cạnh này, những người làm mục vụ không những phải có nền tảng tốt về các vấn đề thần học và tâm linh, mà họ còn phải bám sát các thông tin khoa học đáng tin cậy do các chuyên gia cung cấp để truyền đạt lại cho những người họ chăm sóc.
Cuối cùng, các mục tử cũng truyền thông qua cách làm gương sáng như đeo khẩu trang khi xuất hiện trước công chúng hoặc khi cử hành phụng vụ. Đối với các mục tử, những hành động này không phải là cách thể hiện lập trường chính trị mà là cách thực thi các biện pháp phòng ngừa cơ bản và thiết yếu để đối phó với dịch bệnh. Các mục tử cũng khởi xướng các chương trình trực tuyến và ngoại tuyến để giúp đỡ các nạn nhân của đại dịch về vật chất lẫn tinh thần. Nhờ đó, các ngài giúp mọi người nhận ra câu hỏi quan trọng nhất cần đặt ra trong đại dịch không phải là “Tại sao điều này lại xảy ra?” nhưng phải hỏi là "Chúng ta có thể làm gì để trợ giúp?". Với tư cách là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, Giáo hội có nhiệm vụ lên tiếng nhân danh Chúa Kitô, đồng thời noi gương Chúa Kitô trong các hành động của mình. Cho dù thế giới đang ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người thời nay không thể đánh giá thấp giá trị truyền thông thể hiện qua hành động và lời nói có tính nâng đỡ của các nhà lãnh đạo và các thành viên trong Giáo hội. Thật vậy, nếu mọi người tin vào những gì họ nghe, đó là vì họ đã quan sát thấy rằng những lời đó đã được chuyển thành hành động rõ ràng, trung thực và mang lại sự sống. Thế nên, truyền thông mục vụ trong thời đại kỹ thuật số phải bao gồm cả hai chiều kích, đó là lời nói và việc làm.
---------------------------
[1] Vatican II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giờ ngày nay Gaudium et Spes, 1965, https://www.vatican.va/archive/hist_councils/ii_vatican_council/documents/vat-ii_const_19651207_gaudium-et-spes_en.html, số 4
[2] Ibid., số 10
[3] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sứ điệp Ngày Truyền thông Thế giới 2018, https://www.vatican.va/archive/hist_councils/ii_vatican_council/documents/vat-ii_const_19651207_gaudium-et-spes_en.html, số 4
[4] Pontifical Council for Social Communications, “Ethics in Internet,” 2002, http://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/pccs/documents/rc_pc_pccs_doc_20020228_ethics-internet_en.html.
[5] “Vatican preparing ‘Ethics in Internet” document,” Zenit.org (12/3/2001), https://www.zeitun-eg.org/zenit_ethics.htm
[6] Ibid.
[7] Pontifical Council for Communications, “Ethics in Social Communications,” 2002, http://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/pccs/documents/rc_pc_pccs_doc_20000530_ethics-communications_en.html,
[8] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio, 1967, http://www.vatican.va/content/paul-vi/en/encyclicals/documents/hf_p-vi_enc_26031967_populorum.html, số 43.
[9] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, 2015, http://www.vatican.va/content/francesco/en/encyclicals/documents/papa-francesco_20150524_enciclica-laudato-si.html, số 16.
[10] Laudato Si, số 20
[11] Laudato Si, số 106.
[12] Laudato Si, số 106.
[13] Laudato Si, số 62.
[14] Laudato Si, no. 225.
[15] Mark Poepsel, “Digital Culture and Social Media,” https://press.rebus.community/mscy/chapter/chapter-2-digital-culture/
[16] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, 1990, http://www.vatican.va/content/john-paul-ii/en/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_07121990_redemptoris-missio.html.
[17] Redemptoris Missio, số 37c.
[18] Gisbert Greshake, “Der Ursprung der Kommunikationsidee,” trong Anh Vu Ta và Franz-Josef Eilers, Social Communication in Theological Perspective: Communication Theology (Manila: Logos Publications, Inc., 2015), 47.
[19] Ibid., 48.
[20] Bernard Lonergan, Method in Theology (Toronto: University of Toronto Press, 1972), 255.
[21] Avery Dulles, The Craft of Theology: From Symbol to System (Dublin: Crossroad, 1992), 22.
[22] Anh Vu Ta and Franz-Josef Eilers, Social Communication in Theological Perspective: Communication Theology (Manila: Logos Publications, Inc., 2015), 48.
[23] Franz-Josef Eilers, Communicating in Community: An Introduction to Social Communication (Manila: Logos Publications, Inc., 2009), 46.
[24] Ibid.
[25] Carlo Maria Martini, Communicating Christ to the World (Diliman: Claretian Publications, 1994), 21
[26] Vatican II, Communio et Progressio, 1971, http://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/pccs/documents/rc_pc_pccs_doc_23051971_communio_en.html, số 11.
[27] Franz-Josef Eilers, “Communication Theology: Some Considerations,” trong Franz Josef Eilers, ed. Church and Social Communication in Asia: Documents, Analysis Experiences. 2nd ed. (Manila: Logos Publications, Inc., 2008), 174.
[28] Virgilio F. Ciudadano, Jr, Social Communication Formation in Seminaries and Schools of Theology: An Investigation (Manila: Logos Publications, Inc., 2015), 107.
[29] Ibid., 14.
[30] Franz-Josef Eilers, Communicating in Ministry and Mission: An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication (Manila: Logos Publications, Inc., 2003), 34.
[31] Hội đồng Giám mục Việt Nam, “Cẩm nang cho Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành,” https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cam-nang-cho-thuong-hoi-dong-giam-muc-ve-tinh-hiep-hanh-42941
[32] Ibid., 210.
[33] Secretariat for Non-Christians, “The Attitude of the Church towards the Followers of Other Religions: Reflection and Orientations on Dialogue and Mission,” quoted in Stephen B. Bevans and Roger P. Schroeder, Constants in Context: A Theology of Mission For Today (Quezon City: Claretian Publications, 2004), 378.
[34] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Truyền thông Thế giới 2002, http://www.vatican.va/content/john-paul-ii/en/messages/communications/documents/hf_jp-ii_mes_20020122_world-communications-day.html.
[35] Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, Sứ điệp Ngày Truyền thông Thế giới, 2011, http://www.vatican.va/content/benedict-xvi/en/messages/communications/documents/hf_ben-xvi_mes_20110124_45th-world-communications-day.html.
[36] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tống huấn Evangelii Gaudium (Makati: Word & Life Publications, 2014), 1.
[37] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, 2013, https://www.vatican.va/content/francesco/en/apost_exhortations/documents/papa-francesco_esortazione-ap_20131124_evangelii-gaudium.html, số 259, số 261.
[38] Evangelii Gaudium, số 261.
[39] Evangelii Gaudium, số 261.
[40] Evangelii Gaudium, số 110.
[41] Evangelii Gaudium, số 128.
[42] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Truyền thông Thế giới năm 1981, http://www.vatican.va/content/john-paul-ii/en/messages/communications/documents/hf_jp-ii_mes_10051981_world-communications-day.html.
[43] Ben Witheringtong III, The Acts of The Apostles: A Socio-Rhetorical Commentary (Michigan: W.B. Eerdmans Publishing Co, 1998), 130.
[44] Denzil R. Miller, The Spirit of God in Mission (Springfield, Missouri: Pneumal Life Publication, 2011), 40.
[45] Carlo Maria Martini, Communicating Christ to the World, 22.
[46] Communio et Progressio, số 12.
[47] Communio et Progressio, số 73.
[48] Communio et Progressio, số 11.
[49] Communio et Progressio, no. 11b.
[50] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sứ điệp Ngày Truyền thông Thế giới năm 2014, http://w2.vatican.va/content/francesco/en/messages/communications/documents/papa-francesco_20140124_messaggio-comunicazioni-sociali.html
[51] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti, 2020, http://www.vatican.va/content/francesco/en/encyclicals/documents/papa-francesco_20201003_enciclica-fratelli-tutti.html, số 43.
Chương 1: Bối cảnh xã hội và mục vụ
Chương 2: Thần học và mục vụ truyền thông
Chương 3: Ứng phó mục vụ
Chương 4: Hướng đến thần học mạng
Chương 5: Đối thoại liên tôn
Chương 6: Giao thoa văn hóa
Chương 7: Xây dựng tình hiệp thông qua trung gian mạng
Chương 8: Lãnh đạo tôn giáo với truyền thông mạng xã hội
Chương 9: Mục vụ và CNTT-TT trong và sau thời đại dịch
Chương 10: Mạng xã hội với mục vụ di dân
Chương 11: Tôn giáo với tương lai kỹ thuật số